Thông tin chung
Tác giả: Robert Schumann.
Tác phẩm: Kreisleriana, Op. 16
Thời gian sáng tác: Tháng 4/1838. Một phiên bản được sửa chữa xuất hiện năm 1850.
Độ dài: Khoảng 30-35 phút.
Đề tặng: Schumann đề tặng tác phẩm cho Frédéric Chopin.
Cấu trúc tác phẩm:
Tác phẩm gồm 8 chương:
Chương I – Äußerst bewegt (Vô cùng sôi nổi), Rê trưởng
Chương II – Sehr innig und nicht zu rasch (Rất nội tâm và không quá nhanh), Si giáng trưởng
Chương III – Sehr aufgeregt (Rất kích động), Son thứ
Chương IV – Sehr langsam (Rất chậm), Si giáng trưởng – Son thứ
Chương V – Sehr lebhaft (Rất sống động), Son thứ
Chương VI – Sehr langsam (Rất chậm), Si giáng trưởng
Chương VII – Sehr rasch (Rất nhanh), Đô thứ – Mi giáng trưởng
Chương VIII – Schnell und spielend (Nhanh và vui đùa), Son thứ
Hoàn cảnh sáng tác
Dẫu có ảnh hưởng to lớn trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa Lãng mạn, nhưng ngày nay không nhiều người nhớ đến nhà văn Ernst Theodor Amadeus Hoffmann (1776-1822). Tuy nhiên, trong âm nhạc, một số tác phẩm của Hoffmann là nguồn cảm hứng sáng tạo cho nhiều nhà soạn nhạc sáng tác lên những bản nhạc tuyệt vời của mình. Chúng ta có thể kể đến Les contes d’Hoffmann của Offenbach dựa trên ba truyện ngắn của Hoffmann hay câu chuyện Kẹp hạt dẻ và Vua chuột của ông sẽ được tái hiện trong vở ba lê của Tchaikovsky. Và tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của Hoffmann, Kapellmeister Johannes Kreisler, một thiên tài âm nhạc điên khùng đang rơi vào tình trạng mất trí, sẽ truyền cảm hứng cho một trong những kiệt tác vĩ đại nhất của Robert Schumann: Kreisleriana.
Năm 1838 là giai đoạn khó khăn đối với Schumann. Mối tình của ông với Clara vẫn bị ông Wieck ngăn cản. Họ phải sống rời xa nhau (Schumann ở Leipzig còn Clara ở Vienna). Cặp đôi đã đưa thỉnh cầu của mình lên toà án với hi vọng được chấp thuận cho họ được kết hôn. Trong thời kỳ mà các cảm xúc bị giày vò này, toàn bộ sáng tác của Schumann trở nên mang tính thử nghiệm và phức tạp hơn. Việc thể hiện cảm xúc quá đa dạng và cấu trúc độc đáo của chúng gây ra những sự tranh luận dày đặc từ những nhà phê bình và mang đến sự khó hiểu cho người nghe. Sonata piano số 3 (concerto không dàn nhạc), Kinderszenen, Fantasie và Kreisleriana là những tác phẩm tiêu biểu của Schumann trong giai đoạn này. Schumann tuyên bố ông sáng tác Kreisleriana chỉ trong vòng 4 ngày của tháng 4/1838, với phụ đề Fantasy dành cho piano. Tuy nhiên, có thể ông vẫn tiếp tục làm việc với nó cho tới tháng 9. Ban đầu ông định dành tặng bản nhạc cho Clara, điều này được thể hiện trong một bức thư ông gửi cho cô: “Âm nhạc giờ đang tràn ngập trong anh với những giai điệu tuyệt đẹp – hãy tưởng tượng, kể từ bức thư trước, anh đã hoàn thành một cuốn sổ ghi chép với những sáng tác hoàn toàn mới. Anh định gọi nó là Kreisleriana. Em và một trong những ý tưởng của em đóng vai trò chính trong đó và anh muốn dành tặng nó cho em – cho riêng em chứ không phải bất kỳ ai khác và em sẽ mỉm cười thật ngọt ngào khi khám phá ra mình ở trong đó.”
Tuy nhiên, sau đó Schumann đã đổi ý và dành tặng Kreisleriana cho người bạn Chopin của mình, có lẽ để tránh đi cuộc đối đầu căng thẳng hơn với ông Wieck. Tác phẩm của Hoffmann bao gồm những bài viết của Kreisler, người từng là Kapellmeister cho một thị trấn không tên của Đức. Có tài năng xuất chúng và khá lập dị, Kreisler không ngừng sáng tác, viết lách, làm việc với các nhạc sĩ khác – đôi khi là những người hoàn toàn không có tài năng gì – và ghi chép lại những suy nghĩ của mình. Điều này tạo nên một cuốn sách cực kỳ giàu trí tưởng tượng, nếu không muốn nói là hơi điên rồ. Đối với những người quen thuộc với âm nhạc của Schumann, cuốn sách của Hoffman dường như là nguồn cảm hứng hoàn hảo. Schumann nổi tiếng với những cáo buộc về tâm thần không ổn định. Trong suốt cuộc đời, ông đã áp dụng hai tính cách trong âm nhạc và sáng tác của mình – một (Florestan) bốc đồng, đam mê, dễ bị kích động, trong khi người kia (Eusebius) hướng nội, thơ mộng và thận trọng hơn nhiều. Schumann có liên quan sâu sắc đến những tính cách được tạo ra này đến nỗi, với tư cách là một nhà phê bình âm nhạc của những người khác, đôi khi ông viết bài đánh giá, ký tên “Florestan” hoặc “Eusebius”. Thậm chí ông từng viết hai bài đánh giá về cùng một buổi hòa nhạc – một của Florestan, một của Eusebius! Bản thân Schumann tỏ ra rất hài lòng với tác phẩm của mình. Sau khi Kreisleriana được xuất bản vào năm 1839, ông đã nói với một người bạn của mình: “Đây là tác phẩm yêu thích của tôi. Tên bản nhạc không truyền tải điều gì nhưng rất Đức.”
Phân tích
Mặc dù không có một câu chuyện hoặc chương trình cụ thể nào cho tác phẩm nhưng âm nhạc có tính gợi mở cao và không khó để tưởng tượng nó đại diện cho điều gì. Chương I có lẽ là chương “dằn vặt nhất” – một loạt các nốt nhạc quay cuồng và những sự nhấn mạnh đau khổ trên tay trái chứa đầy sự giận dữ và năng lượng thô ráp. Chương nhạc này đôi khi như một cơn ác mộng, có cấu trúc ABA với phần giữa mang tính tương phản cao, một giai điệu trữ tình nhẹ nhàng.
Chương II là chương dài nhất trong tác phẩm, chứa đựng trong những giai điệu xinh đẹp nhất của Schumann. Hình thức là ABACA – với phần A chứa đựng chất trữ tình tha thiết và tâm sự chân thành; phần B là điệu nhảy lắc lư theo phong cách Baroque kéo dài không quá 20 giây; phần C là một cuộc đối thoại (hay tranh cãi?) khuấy động, rắc rối giữa hai tay của nghệ sĩ piano dẫn tới tính chất của toàn bộ chương nhạc thay đổi. Sau khi phần C diễn ra, phần A không thể nào trở lại tính chất trữ tình và chân thành như lúc đầu.
Chương III mang nhiều tính chất kích động, lo lắng, mà điều tương tự chúng ta sẽ bắt gặp lại trong chương V. Hình thức chương nhạc là ABA với phần giữa lộng lẫy một cách kỳ diệu – chất trữ tình trong âm nhạc của Schumann nở rộ. Phần B này tràn ngập sự lãng mạn, với những cảm xúc nhịp nhàng. Sau khi sự căng thẳng của phần A trở lại, một coda nghiêm khắc mở ra với nhiều đảo phách trong bàn phím.
Chương IV đẹp, nên thơ và là một trong những trích đoạn nổi tiếng nhất của Schumann. Chắc chắn Schumann đã viết đoạn nhạc này với hình ảnh của Clara trong tâm trí, âm nhạc ẩn chứa một tình yêu sâu sắc nhưng không thể nói ra. Một lần nữa chương nhạc có dạng ABA, âm nhạc có tính thơ mộng cao, nó tương tự như đoạn kết “Nhà thơ nói” từ Kinderszenen, hoặc chương cuối cùng của Fantasie.
Chương V có lẽ là chương nhạc kích thích trí tưởng tượng nhiều nhất. Nó ở dạng ABACABA, với tâm trạng thay đổi dữ dội đặc trưng của Schumann. Phần mở đầu tinh nghịch, những nét nhạc mới xuất hiện từ bên trái và phải theo phong cách Baroque. Ngay sau đó, một chủ đề mới xuất hiện đầy tự tin xua tan hết những nét nhạc này, sau bốn lần lặp lại, chủ đề đầu tiên được tái hiện. Khoảnh khắc đặc biệt thú vị xảy ra trong phần C khi âm nhạc đột ngột cất lên, đầu tiên ở dải âm trầm, sau đó cao dần lên cho đến khi xuất hiện một hợp âm giảm dường như rút cạn năng lượng và rồi sau đó lại tiếp tục dâng trào lên.
Chương VI được đánh dấu rất chậm, mang âm hưởng của một sự khát khao, hoài cổ. Một giai điệu dễ chịu và đơn giản mở ra chương nhạc, được đáp lại bằng một nét nhạc trầm ấm – mang màu sắc tươi sáng. Một sự gián đoạn xuất hiện với những hợp âm, thể hiện sâu trong dải âm trầm của piano. Âm nhạc dường như đang đi đâu đó, dần dần trở nên phong phú hơn về kết cấu và hoà âm, chỉ để trở lại với giai điệu “rất chậm” ban đầu một lần nữa.
Chương VII với hình thức ABA đòi hỏi một nền tảng kỹ thuật điêu luyện. Với những nốt móc kép liên tiếp không ngừng nghỉ xuyên suốt, Schumann đã tạo ra vòng tròn các quãng năm và thậm chí là một fugue trong phần B, dẫn đến một cao trào mạnh mẽ rơi thẳng xuống. Tại thời điểm này Schumann có ghi chú Noch Schneller (thậm chí còn nhanh hơn) – một thách thức đòi hỏi các nghệ sĩ biểu diễn hãy chơi nhanh nhất có thể. Tại một trong những khoảnh khắc đặc trưng của Schumann, phần “thậm chí còn nhanh hơn” quay cuồng, hoang dã này đi đến điểm dừng, bị ngắt quãng bằng những hợp âm giống như một khúc thánh ca, dường như chúng ta bị dịch chuyển tới một không gian hoàn toàn khác lạ.
Chương kết có thể nói ngắn gọn trong một từ: bí ẩn. Đây là diễn biến tâm lý hoang mang nhất, nhiễu loạn nhất của tác phẩm. Đôi khi cảm xúc minh mẫn, và đôi khi trừu tượng một cách đáng sợ, chương nhạc này có vẻ như kể về những kết thúc, nhưng không phải là những điều hạnh phúc. Chương nhạc có hình thức ABACA, với phần A bắt đầu bằng việc lướt tay phải lên xuống bàn phím một cách rõ ràng và vui tươi, nhưng tay trái mang đến sự đáng sợ. Sau đó mọi thứ nhường chỗ cho phần B trữ tình, đồng cảm, phần này không bao giờ cố gắng thoát khỏi nhịp điệu “vui tươi” của phần A. Schumann nhắc lại thứ âm nhạc này và khi nó kết thúc, khoảnh khắc sấm sét nhất trong toàn bộ tác phẩm bắt đầu. Phần C được Schumann ghi chú “với tất cả khả năng của bạn”, âm nhạc cất lên với một chủ nghĩa anh hùng to lớn, vang dội và cuối cùng, có lẽ là lần đầu tiên trong tác phẩm, có vẻ như sẽ có một khoảnh khắc đỉnh cao đáng kinh ngạc nào đó khép lại bao giây phút tiếc nuối, hụt hẫng hay đau buồn. Tuy nhiên, sự vui vẻ điên cuồng của phần A hoàn toàn chống lại sự hi vọng và mong muốn được khuây khoả đã nhảy lên cận cảnh như một sự xuất hiện kỳ lạ của cái chết không thể tránh khỏi, khép lại tác phẩm.
Kreisleriana là một trong những tác phẩm dành cho piano độc tấu có quy mô lớn nhất của Schumann. Việc trình diễn tác phẩm này không hề dễ dàng đối với bất kỳ nghệ sĩ piano nào vì trong bản nhạc, đặc biệt ở những chương chậm, thường xuất hiện một dàn hợp xướng bốn bè đầy đủ với giai điệu nổi lên cao bắt đầu từ bè trầm, hoặc ở giữa bàn phím và hát từ trên cao xuống. Với cách viết phức điệu có kết cấu mượt mà cho ta thấy một đặc điểm nổi bật của Schumann: đó là sự ngưỡng mộ đối với âm nhạc của Johann Sebastian Bach.
Cobeo (nhaccodien.info) tổng hợp