Công diễn lần đầu: ngày 7/5/1824 tại Kärntnertortheater ở Vienna (cùng với overture Die Weihe des Hauses và 3 phần đầu của Missa solemnis) do Michael Umlauf và tác giả chỉ huy.
Độ dài: khoảng từ 65 đến 75 phút
Thành phần dàn nhạc: piccolo (chương IV), 2 flute, 2 oboe, 2 clarinet in A, B flat & C, 2 bassoon, contrabassoon (chương IV), 2 horn (1 & 2) in D & B flat, 2 horn (3 & 4) in B flat (bass), B flat & E flat, 2 trumpet in D & B flat, 3 trombone (alto, tenor & bass, chương II & IV), timpani, triangle (chương IV), cymbal (chương IV), bass drum (chương IV) và bộ dây.
Các bè thanh nhạc gồm : soprano solo, alto solo, tenor solo, baritone solo và dàn hợp xướng 4 bè (soprano, alto, tenor [chia thành Tenor I and Tenor II] và bass).
I- Allegro ma non troppe, un pocoomaestoso (không nhanh quá mức, thêm phần trang trọng).
II- Molto vivace.
III- Adagio molto e cantabile (chậm rãi và du dương).
IV- Presto – Allegro assai.
Hiệp hội London (The Society of London – sau này là Royal Philharmonic Society) đặt hàng bản giao hưởng vào năm 1817. Beethoven bắt đầu làm việc với bản giao hưởng cuối cùng vào năm 1818 và kết thúc vào đầu năm 1824. Khoảng 10 năm sau bản giao hưởng số 8. Tuy nhiên, Beethoven bắt đầu sáng tác tác phẩm này sớm hớn. Ông đã muốn đặt An die Freude vào nhạc rất sớm từ năm 1793. Ông đã làm điều đó, nhưng thật không may tác phẩm này bị mất vĩnh viễn. Từ chủ đề cho chương scherzo có thể lần ngược về bản fugue được viết vào năm 1815.Vào ngày 7/5/1824, Ludwig van Beethoven đã nếm trải thắng lợi chắc chắn là vang dội nhất của mình trước công chúng. Khán thính giả nhà hát Kärntnertor tại Vienna không chỉ được nghe Overture Die Weihe des Hauses Op. 124 và 3 phần của Missa Solemnis Op. 123 mà đây còn là buổi công diễn lần đầu bản giao hưởng hợp xướng bất hủ của Beethoven. Giao hưởng số 9 giọng Rê thứ, Op. 125 bắt nguồn từ hai tác phẩm riêng biệt – một bản giao hưởng với chương kết có hợp xướng và một tác phẩm khí nhạc thuần túy giọng Rê thứ. Beethoven đã làm việc với chúng trong gần 10 năm trước khi quyết định kết hợp hai ý tưởng lại thành một bản giao hưởng với lời thơ An die Freude (Tụng ca niềm vui) của Schiller như là chương kết.
Phân tích:
Giao hưởng số 9 của Beethoven thuộc vào số ít tác phẩm của nền nghệ thuật thế giới, như những đỉnh núi cao nhất, trội hơn tất cả những gì mà những thiên tài nghệ thuật của nhân loại tạo nên. Cũng như những bài thơ của Homerk “Thần khúc” (Divina commedia) của Dante, tranh Đức mẹ của Raphael, “Faust” của Goethe hoặc khúc Messe (Die hohe Messe) của Bach, giao hưởng số 9, là con đẻ của thời đại của mình, đồng thời là sự thể hiện những lý tưởng và hoài bão của loài người. Nhạc sĩ hoàn thành bản giao hưởng vào cuối đời nhưng đã nghiền ngẫm trong suốt cuộc đời mình. Hồi còn trẻ, say sưa với những tư tưởng của cuộc Cách mạng Pháp, Beethoven tìm tòi thể hiện âm nhạc bài thơ ca ngợi (Ode) “Hướng tới niềm vui” (Ode to Joy) của Schiller, mà ông đã lấy lời thơ ấy viết màn hợp xướng chương cuối của giao hưởng số 9. Những tư tưởng về tình hữu ái nhân loại, về tự do được đưa vào giao hưởng đã thôi thúc ông mãi trên suốt cả con đường sáng tác. Không phải ngẫu nhiên mà chủ đề âm nhạc của chương cuối nảy sinh trước khi có bản giao hưởng, và có thể tìm thấy trong các tác phẩm khác của Beethoven không ít những hình ảnh tương tự với chủ đề ấy. Nói một cách khác, giao hưởng số 9 – là sự tổng kết những tìm tòi tư tưởng nghệ thuật của nhạc sĩ.Bản giao hưởng được xây dựng trong thời gian mà thời kỳ cách mạng Pháp đã đi vào dĩ vãng, và thế lực phản động đang ngự trị ở Châu Âu. Những hy vọng đã đổi thành thất vọng. Trong nghệ thuật đã nảy sinh một trào lưu mới – chủ nghĩa lãng mạn, thể hiện những tâm trạng mới. Công trạng của người nghệ sĩ ca ngợi Trí tuệ, Tự do, Niềm tin trong thời kỳ đen tối ấy ấy càng có ý nghĩa lớn. Giao hưởng số 9 – một bản tuyên ngôn âm nhạc của thế kỷ 19, như Lenin nói: “tiến hành dưới khẩu hiệu của cuộc cách mạng Pháp”.Giao hưởng số 9 – tác phẩm cải cách sâu sắc. Lần đầu tiên lời hát được đưa vào giao hưởng. Thủ pháp táo bạo ấy rất cần thiết đối với Beethoven. Sự phát triển của tư tưởng của bản giao hưởng đã gợi ý việc đưa lời hát vào như tiếng nói của nhân loại, tính cụ thể của lời ca cần cho việc diễn đạt kết luận tư tưởng chủ yếu của quang điểm triết học to lớn. Nhưng cái đó không hạn chế cái mới của Beethoven. Ông đổi vị trí của Scherzo và Adagio, viết những đoạn ngoài cùng của chương Scherzo theo hình hình thức sonata allegro. Thiên tài Beethoven đã đạt đến độ trưởng thành tột bực trong giao hưởng số 9. Bản giao hưởng gây xúc động mạnh bởi tính bi kịch của những nỗi đau khổ của nhân loại, cuộc đấu tranh tư tưởng lớn lao, tư tưởng cao cả, nguồn cảm hứng của chủ nghĩa nhân văn tổng kết con đường sáng tác của Beethoven – nhà soạn nhạc giao hưởng. Bản giao hưởng số 9 mở ra những triển vọng mới đối với nền nghệ thuật âm nhạc của những thế hệ tiếp theo.
Chương II – Phá bỏ tập tục cũ, Beethoven để khúc Scherzo ngay sau chương I. Nó xóa bỏ yếu tố bi thảm lúc đầu – Scherzo – cảnh huy hoàng có khí thế và hiệu lực, nó lao nhanh dồn dập như một trận bão lửa, tạo nên ấn tượng lúc thì mang tính chất anh hùng ca, lúc thì phóng túng, mơ mộng. Nhưng trong dòng âm thanh như đuổi theo nhau đó khuôn phép nghiêm ngặt về nhịp điệu vẫn khống chế. Những phần ngoài cùng được viết ở hình thức sonata allegro (lại một cải tiến mới mẻ nữa) tương phản với phần trio mang tính chất phong cảnh phong tục, với nhiều màu sắc tươi sáng của đồng quê.
Chương III – thể hiện lý tưởng đạo đức, vẻ đẹp và tính chất hùng vĩ của âm nhạc đầy cảm hứng bởi ý tưởng cao cả về đạo đức và hoàn thiện, sứ mệnh và nghĩa vụ của con người. Tính chất minh bạch sáng sủa, sự hài hòa của lý trí và tình cảm bao trùm niềm suy tư triết lý tỉnh táo ấy. Dòng nhạc thong thả, đầy đặn, sự luân chuyển và bổ sung lẫn nhau của hai chủ đề và các biến tấu của chúng rất chặt chẽ và hợp lý, hơi thở của giai điệu vô cùng rộng rãi. Điệu trưởng chiếm ưu thế hầu như khắp nơi trong nền tảng dàn nhạc đầy chất giai điệu tươi sáng, chỉ có hai lần bị phá vỡ do sự xâm nhập của chủ đề chính của chương I – như muốn nhắc rằng đạt được sự rõ ràng và cân đối ấy phải trả bằng một giá đắt.
Chương IV – chương cuối với phần đầu tràn lên dữ dội, khôi phục cái lạc điệu tưởng như đã được khắc phục. Nhưng điều đó chỉ là sự cố gắng để quay về. Nhưng sự trở về đã không thể có được logic phát triển của “những sự kiện” nhất quyết dẫn đến thắng lợi của niềm vui. Những chủ đề của những chương trước – những đoạn đường đã bị vượt qua – nối tiếp nhau đi, nhưng chủ đề nào cũng bị bè cello “cự tuyệt” bằng cách nói cương quyết: không một chủ đề nào có thể nói là chủ đề của chương cuối. Cần phải tìm cái nào đó có phẩm chất mới, hơn hẳn tất cả những gì đã có từ trước đến nay và có thể nói lên kết quả phát triển tư tưởng âm nhạc của bản giao hương. Một khoảnh khắc yên lặng trong dàn nhạc. Và cuối cùng chủ đề mới ấy xuất hiện, chủ đề Niềm Vui. Chính nhờ tính chất mộc mạc mà nó được xem như một sự phát triển rõ ràng. Đầu tiên là cello và contrebass diễn tấu chủ đề ấy, sau đó từng nhóm nhạc cụ khác và cuối cùng, cả dàn nhạc. Đó là niềm vui đã vượt qua đau khổ, chiến thắng cái ác, là thành quả của sự hài hòa cân đối cao độ của nội tâm và sự thoải mái về tinh thần của con người. Âm thanh của chủ đề đạt đến quy mô to lớn, và một lần nữa, lần cuối cùng, nhạc tố hốt hoảng, kinh hoàng trong chương I lại chen vào. Và lúc đó, lần đầu tiên nghe thấy tiếng nói của con người: “Ồ các bạn ơi! Không phải những âm thanh ấy! Tốt hơn hết chúng ta hãy hát cái gì vui tươi!” Chủ đề Niềm Vui xuất hiện ở các giọng đơn ca và hợp xướng: “Ôi Niềm Vui thần thánh tuyệt vời, nữ thần của bầu trời! Lòng hân hoan, chúng tôi bước vào thánh đường của người”. Từ lúc đó Niềm Vui vô tận, không gì làm u tối đi, đuợc giữ mãi cho đến cuối chương. Hơn thế nữa, Niềm Vui được thể hiện trong tất cả sự phong phú về giới hạn và sắc thái. Chủ đề thông qua một loạt biến hóa, trở thành khúc ca, bài hát ca ngợi tươi sáng, hành khúc anh hùng, về tính chất có khác nhau, những đoạn chen (episodes) được trình bày trong bức tranh khổng lồ chung của niềm vui sướng của quần chúng, sự hân hoan tưng bừng của nhân loại được giải phóng và hạnh phúc. Và trong âm nhạc như tràn ngập ánh mặt trời, và trong từng ô nhịp ánh hào quang ngày càng rực rỡ, chói lọi. Về cuối giọng hát đơn ca, hợp xướng và dàn nhạc hòa thành khí thế chung ngợi ca niềm vui, trong niềm hân hoan tột độ. “Hỡi triệu triệu người, hãy xiết chặt tay nhau! “Bản giao hưởng kết thúc bằng sự ca ngợi Tự do, tình huynh đệ của Nhân loại.
Như vậy là, từ tối tăm – ra ánh sáng, qua đấu tranh và tổn thất – đến giác ngộ sứ mệnh của con người, từ u tối – đến ánh sáng của chân lý, đến niềm vui của thế giới được giải phóng và hạnh phúc. Đó là những nét lớn trong nội dung tư tưởng của bản giao hưởng số 9, thể hiện những lý tưởng bất tử mà hàng bao nhiêu thế kỷ loài người đang vươn tới.
Ode an die Freude O Freunde, nicht diese Töne! Sondern laßt uns angenehmere anstimmen, und freudenvollere. Freude! Freude! Freude, schöner Götterfunken Tochter aus Elysium, Wir betreten feuertrunken, Himmlische, dein Heiligtum! Deine Zauber binden wieder Was die Mode streng geteilt; Alle Menschen werden Brüder, Wo dein sanfter Flügel weilt. Wem der große Wurf gelungen, Eines Freundes Freund zu sein; Wer ein holdes Weib errungen, Mische seinen Jubel ein! Ja, wer auch nur eine Seele Sein nennt auf dem Erdenrund! Und wer’s nie gekonnt, der stehle Weinend sich aus diesem Bund! Freude trinken alle Wesen An den Brüsten der Natur; Alle Guten, alle Bösen Folgen ihrer Rosenspur. Küße gab sie uns und Reben, Einen Freund, geprüft im Tod; Wollust ward dem Wurm gegeben, Und der Cherub steht vor Gott. Froh, wie seine Sonnen fliegen Durch des Himmels prächt’gen Plan, Laufet, Brüder, eure Bahn, Freudig, wie ein Held zum Siegen. Seid umschlungen, Millionen! Diesen Kuß der ganzen Welt! Brüder, über’m Sternenzelt Muss ein lieber Vater wohnen. Ihr stürzt nieder, Millionen? Ahnest du den Schöpfer, Welt? Such’ ihn über’m Sternenzelt! Über Sternen muss er wohnen | Tụng ca niềm vui Bạn bè ơi, hãy ngừng than thở! Hãy cất tiếng ca hòa chung vui mừng, thành kính lên trời. Niềm vui! Niềm vui! (*) Niềm vui, ánh chớp đẹp ngời của Chúa, Nữ thần của chốn thiên đường, Chúng ta cùng say sưa tiến vào Thánh đường huy hoàng nơi tiên giới! Phép huyền diệu lại làm gắn kết Những gì mà lề thói cách ngăn. Mọi người đều trở thành anh em, Nơi cánh bay dịu mềm đáp xuống. Những ai có niềm may mắn lớn, Được làm bè bạn của bạn bè; Những ai lấy được vợ dịu hiền, Hãy vào đây cũng hân hoan vui sướng! Cả những ai chỉ gọi được duy nhất Một linh hồn trên trái đất này! Còn những ai không thể, phải khóc ròng Xin bước ra khỏi vòng chúng ta! Tất cả hãy cùng uống niềm vui Từ bầu ngực của thiên nhiên tạo hóa; Cả người hiền và cả người ác Đều lần theo dấu vết hoa hồng. Thiên nhiên trao nụ hôn và rượu lành Người bạn được thử thách bằng cái chết; Sâu bọ cũng được tặng vui thú, Và thiên sứ đứng trước Chúa Trời. Niềm vui như nắng vàng liệng bay Qua nhà trời huy hoàng lộng lẫy, Anh em ơi, hãy chạy đua vui sướng, Như vị anh hùng tới thắng lợi vẻ vang. Triệu triệu người hãy siết chặt vòng tay! Nụ hôn này dành cho tất cả! Anh em ơi, hẳn trên trời thăm thẳm Ngự trị một người cha nhân từ. Triệu triệu anh em có cúi lạy Người? Đấng sáng tạo mình, thế gian có biết? Hãy tìm Người trên những vòm tinh tú! Người hẳn ngự trên những vì sao. |