Daniel Barenboim/ Copyright: Monika Rittershaus Adresse:Amalienpark 5/13187 Berlin/ Tel:47549859 / Fax: 47559441 Konto:753064102/Postbank Berlin/BLZ: 100 100 10/ Mail:MonikaRittershaus@web.de
Đôi khi dễ xúc động và luôn là một người theo chủ nghĩa hoàn hảo, Daniel Barenboim đã làm vẻ vang cho các sân khấu hòa nhạc châu Âu, châu Á, Bắc Mỹ, Úc và Trung Đông. Ông thành công trên cả hai cương vị: một nghệ sĩ dương cầm giàu cảm hứng cũng như một nhạc trưởng đáng tôn kính.
Barenboim, nghệ sĩ người Israel sinh ra tại Argentina trong thế chiến thứ II, đã bắt đầu sự nghiệp âm nhạc từ một thần đồng piano trẻ vào cuối những năm 1940. Cậu bé ra mắt công chúng trong buổi hòa nhạc đầu tiên vào năm 7 tuổi và trải qua quá trình học tập trong phần lớn những năm 1950 với những nhà giáo và nghệ sĩ tên tuổi nhất vào quãng thời gian ấy. Đầu những năm 1960, Barenboim bắt đầu sự nghiệp chỉ huy dàn nhạc của mình và lần đầu ra mắt công chúng trong vai trò nhạc trưởng cùng với New Philharmonic Orchestra trong buổi hòa nhạc tại London năm 1967.
Từ nửa thế kỉ nay, Bareboim đã gặt hái được nhiều thành công đồng thời trên cương vị nhạc trưởng và nghệ sĩ dương cầm. Ông gắn bó với English Chamber Orchestra trong cả hai vai trò, sáng lập ra Mozart Festival năm 1982, đạo diễn South Bank Music của London và giám đốc âm nhạc của Dàn nhạc Giao hưởng Paris, đồng thời là đạo diễn của Israel Festival. Năm 1991, Barenboim chỉ huy Chicago Symphony Orchestra và năm sau, ông đảm nhiệm việc quản lý State Opera of Berlin. Trong danh mục những tác phẩm mà ông đã biểu diễn, với tư cách pianist và nhạc trưởng, có 32 sonata và 5 concerto của Ludwig van Beethoven. Ông đã thể hiện khả năng của mình khi trình diễn những tác phẩm dành cho piano dưới sự chỉ huy của Otto Klemperer và chỉ huy dàn nhạc với phần biểu diễn piano của Arthur Rubinstein. Năm 2000, ông chơi 5 concerto và chỉ huy Chicago Symphony Orchestra. Danh mục những tác phẩm mà Barenboim đã trình diễn không chỉ bao gồm các nhà soạn nhạc thời kỳ cổ điển như Mozart, Beethoven, vv…, mà còn bao gồm cả những tác phẩm của các bậc thầy như Pierre Boulez, Elliot Carter và Debussy.
 
Barenboim sinh ngày 15 tháng 11 năm 1942 tại Buenos Aires, Argentina. Ông bắt đầu học nhạc từ lúc 5 tuổi. Trong những năm đầu, cậu bé học tập dưới sự chỉ dẫn của cặp cha mẹ người Nga- Do Thái: Enrique Barenboim và Aida (Schuster) Barenboim đều là những nghệ sĩ piano tài năng hoàn hảo. Từ khi cùng gia đình chuyển sang châu Âu năm 1951, khả năng của cậu bé Barenboim có cơ hội bộc lộ rõ rệt. Ở Paris, cậu bé được biết đến như một thần đồng, lên 7 tuổi cậu tham gia buổi biểu diễn đầu tiên tại Nam Mỹ và năm 1952 biểu diễn tại Vienna lúc 9 tuổi. Gia đình sống ở châu Âu thêm một năm nữa và sau đó chuyển về định cư tại Tel Aviv, Israel, đó là nơi Barenboim đã sống tuổi thiếu niên. Cậu bé 10 tuổi khi gia đình di cư sang Trung Đông, và ở đây, tài năng tuyệt vời của cậu bé được thể hiện cũng như tại châu Âu.
Trong những năm còn lại của thập niên 1950, Barenboim bắt đầu thu âm và đi biểu diễn trên toàn thế giới. Bản thu âm đầu tiên của ông ra đời năm 1954, và năm 1955 ông bắt đầu biểu diễn tại London nhân Lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh Mozart. Năm 1957, buổi biểu diễn Piano Concerto số 1 của Prokofiev dưới sự chỉ huy của Leopold Stokowski đánh dấu sự ra mắt của Barenboim tại New York. Ngoài ra, ông còn học với rất nhiều giáo viên ở khắp châu Âu. Trong vòng 10 năm, ông biểu diễn các tác phẩm của Mozart ở Salburg, Áo và ở Viện Hàn lâm Chigiana ở Sienna, Ý. Ông được học với các giáo sư âm nhạc hàng đầu châu Âu, như Edwin Fischer và sau này là Nadia Boulanger ở Paris. Tại Đức, ông học nghệ thuật chỉ huy của Igor Markevich và năm 1956 ông có chứng nhận của Viện Hàn lâm Santa Cecilia ở Rome. Ở Santa Cecilia, năm 14 tuổi, Barenboim thể hiện bản thân một cách xuất sắc, trở thành người tốt nghiệp trẻ nhất trong lịch sử học viện này. Nghệ sĩ piano thiên tài Arthur Rubinstein, bạn của ông bà Barenboim, cũng đã chỉ bảo rất nhiều cho cậu bé.
Barenboin biểu diễn trong vai trò nghệ sĩ piano cùng English Chamber Orchestra bắt đầu từ những năm 1960 và xuyên suốt các năm 1970. Ông chứng tỏ nét đặc trưng của mình khi thể hiện các Piano concerto của Mozart. Ông tiếp tục chuyến công diễn với dàn nhạc trong hơn một thập kỉ trên khắp Anh, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Ngoài các tác phẩm của Mozart, ông còn thành công với nhiều tác phẩm của Beethoven, Brahms và Sir John Barbirolli. Danh mục các tác phẩm cho piano mà Barenboim đã biểu diễn có cả Chopin và Schubert. Dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng Otto Klemperer, Barenboim còn thể hiện 32 sonata và 5 concerto của Beethoven.
Bước ngoặt trên con đường biểu diễn đến với ông vào năm 1966 khi Barenboim biểu diễn lần đầu tiên với nghệ sĩ cello Jacqueline Du Pré. Cơ hội này mở đầu cho sự cộng tác giữa Barenboim và Du Pré, và họ kết hôn năm sau tại Israel. Họ trở thành một cặp đôi chuyên nghiệp và lộng lẫy, thường xuyên tham gia các buổi hòa nhạc thính phòng của các nghệ sĩ hàng đầu thế giới như Zubin Mehta, Itzhak Perlman và Pinchas Zukerman. Song, hai vợ chồng Barenboim chỉ biểu diễn cùng nhau trong một thời gian ngắn ngủi. Năm 1973, Du Pré được chẩn đoán bị bệnh đa sơ cứng và bà buộc lòng phải ngừng chơi cello vĩnh viễn. Du Pré qua đời năm 1987.
 
Những năm 1990 trôi qua trong lặng lẽ. Năm 2000, chào đón thiên niên kỷ mới, Barenboim liên tiếp thu âm và biểu diễn ở Carnegie Hall cũng như ở các nơi khác với tư cách nghệ sĩ dương cầm. Năm 1996, Barenboim ra mắt bản thu âm các tác phẩm nổi tiếng dành cho piano, Tangos Among Friends, và năm 1997, hãng thu âm Teldec phát hành album piano song tấu Marches Militaires và “Grand Duo” (Sonata in C Major) của Schubert do Barenboim và Radu Lupu biểu diễn. Richard Free của tờ tạp chí Stereo Review ngợi khen bản thu âm này là một bản thu mà trong đó “…Sự tinh tế và tính tự nhiên cùng tồn tại ở một mức độ gần như không thể tưởng tượng được… xuất sắc và hoàn toàn thích hợp một cách tuyệt vời đối với chất liệu đặc biệt này.”
Ngày 1 tháng 3 năm 2000, chính Barenboim là người đệm đàn cho ca sĩ giọng tenor Placido Domingo trong buổi recital ra mắt của Domingo tại New York. Cũng trong tháng 1 năm 2000, Barenboim biểu diễn Piano Concerto của Schoenberg dưới đũa chỉ huy của Pierre Boulez tại Carnegie Hall. Trước đó, năm 1999, Barenboim trình tấu jazz classic và thu âm trong chương trình Tribute to Ellington (Tưởng nhớ Ellington), cùng giọng hát của Dianne Reeves. Ngoài ra, ông và nghệ sĩ cello Yo-Yo Ma còn tham gia song tấu thính phòng. Năm 2000, khi Barenboim mang Chicago Symphony Orchestra của mình tới Carnegie Hall trong một serie gồm ba buổi biểu diễn mà ông đóng vai trò nghệ sĩ piano chính, Jay Nordlinger của tờ tạp chí âm nhạc New Criterion ca ngợi: “Piano Concerto số 25 giọng Đô trưởng của Mozart … táo bạo và hùng vĩ, đúng với phong cách của Barenboim. Đó là nét tương phản trong sự thanh nhã, mang đậm chất Mozart”. Về Giao hưởng số 4 của Bruckner do Barenboim chỉ huy, Nordlinger viết: “Ông nắm được trong lòng bàn tay tác phẩm mà có thể dễ dàng lấn áp ngay cả một nhạc trưởng giỏi. Ông truyền đạt một cách dễ dàng cho dàn nhạc; từng động tác, từng cử chỉ, từng ánh mắt đều mang nhạc tính. Ông là một trong những nhạc trưởng có vẻ như thực hiện diễn xuất trên bục chỉ huy mặc dù theo cách không tự ý thức được hay khó chịu. Thật vậy, trong khi phong cách táo bạo trên phím đàn của Barenboim đôi khi đã bị chỉ trích là quá thô ráp thì dù sao ông cũng nổi danh vì những hợp âm rải trôi chảy và lối chơi nhấn mạnh, điều mà hơn thế đã giúp nhớ lại ảnh hưởng trứ danh của Rubinstein lên sự phát triển âm nhạc thời kỳ đầu của Barenboim.
Đạt được tiếng tăm với vai trò nhạc trưởng, Barenboim bắt đầu sự nghiệp chỉ huy dàn nhạc tại Israel năm 1962 và đi lưu diễn nhiều nơi trong những năm 1960 với vai trò nhạc trưởng và nghệ sĩ dương cầm. Ông là đạo diễn chương trình South Bank Music của London từ năm 1968 đến năm 1970 và chỉ đạo Israel Festival từ năm 1973 đến năm 1975. Trong số nhiều dàn dựng opera của mình, Barenboim đã chỉ huy Don Giovani của Mozart (năm 1973 tại Edinburgh) và Le Nozze Di Figaro(năm 1975). Cũng trong năm 1975, ông chỉ huy trong buổi hòa nhạc chia tay của Arthur Rubinstein với the London Philharmonic. Cũng trong năm đó, ông trở thành giám đốc âm nhạc của Dàn nhạc Giao hưởng Paris, một vị trí châm ngòi cho tiếng tăm của ông trong vai trò nhạc trưởng. Dưới sự lãnh đạo của Barenboim trong 14 năm, dàn nhạc đã thiết lập danh tiếng bằng những buổi biểu diễn các tác phẩm đương đại bao gồm âm nhạc của Lutoslawsky, Berio, Boulez, Henze và Duilleux.
Năm 1981, lần đầu tiên Barenboim chỉ huy vở opera Tristan and Isolde tại Bayreuth (Bavaria). Năm 1982 ông sáng lập ra Mozart Festival và nhiệt tình quản lý cho đến năm 1989. Khi đó ông đã bỏ mặc các cam kết khác của mình để lãnh đạo một tổ chức mới có tên Opera de Paris. Mặc dù hợp đồng này không thực hiện được, trong vòng hai năm Barenboim quay về Mỹ tháng 9 năm 1997 để đảm nhận vị trí giám đốc Chicago Symphony Orchestra của Sir George Solti. Các buổi biểu diễn của Barenboim cả trên tư cách nghệ sĩ dương cầm và nhạc trưởng cùng dàn nhạc này được đánh giá cao trong một số bản thu âm và mở rộng sang thế kỷ XXI. Với cương vị người lãnh đạo, Barenboim chỉ huy Chicago Symphony Orchestra trong rất nhiều buổi hòa nhạc tại Carnegie Hall, gồm cả các tác phẩm của Anton Bruckner và Mahler. Năm 1992, Barenboim kí hợp đồng làm lãnh đạo Deutsche Staatsoper (State Opera) của Berlin tiếp tục thành công rực rỡ nhiều năm sau nữa.
Là người chỉ huy công diễn lần đâu tác phẩm Konzert Für Klavier (piano concerto) và Sinfonia của Alexander Goehr lần lượt vào các năm 1972 và 1980, năm 1973, Barenboim còn được vinh dự giới thiệu cho thế giới tác phẩm “Ode pour Jerusalem” (Tụng ca Jerusalem) của Darius Milhaud. Một số tác phẩm khác được Barenboim công diễn lần đầu cùng Chicago Symphony Orchestra là Notation II năm 1982 và Notation V-VIII trong mùa diễn 1997-1998 của Pierre Boulez . Cũng trong mùa diễn ấy, ông giới thiệu ra mắt tác phẩm Continuo của Luciano Berio và Concerto Fantastique của Ralph Shapey. Barenboim chỉ huy buổi ra mắt vở opera Fandango của Hans Werner Henze năm 1986, và từ tháng 2 năm 2000, ông cùng Chicago Symphony Orchestra công diễn vở opera đầu tay của Elliott Carter, What If?(Nếu như), và trong năm ấy mang tác phẩm lưu diễn khắp thế giới.
Ngày 29 tháng 1 năm 1999, Barenboim biểu diễn trong một buổi hòa nhạc lịch sử tại Đại học Birzeit, Palestine. Đó là buổi hòa nhạc đầu tiên của ông tại Bờ Tây bị cuộc chiến tranh giành lãnh thổ giữa Israel và Palestine xâu xé, và là lần đầu tiên một nghệ sĩ người Israel biểu diễn trước công chúng trên vùng lãnh thổ kể từ khi nó bị chiếm đoạt từ Jordan. Trong chương trình này, ông đã chơi Sonata “Pathetique” của Beethoven, chia sẻ sân khấu hòa nhạc với nghệ sĩ piano người Palestine Salim Abboud trong tác phẩm March Militaire của Schubert. Ông bày tỏ với thính giả: “Những gì tôi có thể làm được là biểu diễn âm nhạc và ở đây… chúng ta cùng nhau đẩy lùi nỗi căm hờn. Tôi muốn đưa tay đến các bạn. Tôi muốn hiểu cuộc sống của các bạn”. Ông nói thêm “Tôi đến đây để biểu diễn, bởi lẽ thế kỉ 21 này, con người ta cần phải cư xử như là một con người thay vì chờ đợi những nhà chính trị”.
Sau đó, ông dành thời gian còn lại trong năm để hợp tác cùng Wynton Marsalis tại Trung tâm Lincoln. Lịch biểu diễn của Barenboim trong năm 2000 là các buổi hòa nhạc tại Carnegie Hall, trong đó có vở opera của Carter tháng 3 năm 2000. Thời gian còn lại của năm 2000, Barenboim chỉ tập trung biểu diễn dương cầm, ông chơi toàn bộ các concerto của Beethoven, mặc dù vấp phải nhiều lời phê bình của giới chuyện môn.
Barenboim nhận Huy chương Beethoven năm 1958, giải thưởng Harriet Cohen Paderwski Centenary năm 1963 và Huân chươngdanh dự của Pháp năm 1987. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông sống tại London trước khi chuyển sang Pháp và các nơi khác. Ngày 28 tháng 11 năm 1988, Barenboim kết hôn với nghệ sỹ piano Elena Bashkirova người Nga và đến nay họ có 3 người con. Tiểu sử của ông, A Life in Music, được nhà xuất bản George Weidenfeld and Nicolson Ltd phát hànhtại Anh năm 1991 và xuất bản tại Mỹ vào năm sau.
Phương Anh (nhaccodien.info) tổng hợp