Tác giả: Camille Saint-Saëns.
Thời gian sáng tác: tháng 2 năm 1886
Thời lượng: khoảng 20 đến 25 phút
Tổng phổ: flute, clarinet, 2 piano, glass harmonica (ngày nay được thay bằng glockenspiel), xylophone, 2 violin, viola, cello và double bass.
Tác phẩm gồm 14 khúc nhạc :
I- Introduction et marche royale du Lion (Introduction và Hành khúc hoàng gia của sư tử)
II- Poules et Coqs (Lũ gà mái và gà trống)
III- Hémiones, animaux véloces (Những con lừa; những con thú nhanh nhẹn)
IV- Tortues (Những con rùa)
V- L’Éléphant (Con voi)
VI- Kangourous (Những con kăng-gu-ru)
VII- Aquarium (Bể nuôi cá)
VIII- Personnages à longues oreilles (Những nhân vật với đôi tai dài)
IX- Le coucou au fond des bois (Chim cu trong rừng sâu)
X- Volière (Chuồng chim)
XI- Pianistes (Những nghệ sĩ piano)
XII- Fossiles (Những hóa thạch)
XIII- Le Cygne (Thiên nga)
XIV- Finale
 Saint-Saëns soạn Lễ hội muông thú vào tháng 2 năm 1886 trong trong một kỳ nghỉ ở một làng nhỏ thuộc nước Áo. Đây là một tác phẩm vui nhộn, thỏa mãn được tính cách hóm hỉnh tinh nghịch của nhà soạn nhạc. Trong suốt sự nghiệp sáng tác và giảng dạy của mình, Saint-Saëns đã thích thú viết hoặc ứng biến các tác phẩm nhại lại một cách hài hước tạo ra sự vui vẻ cho một sáng tác hay phong cách âm nhạc nào đó. Tại trường Niedermeyer, nơi ông dạy những nhạc sỹ trẻ người Pháp sáng giá nhất, ông vẫn thường tránh những bài học nhàm chán bằng cách hướng dẫn học trò nhại lại theo phong cách này.
 Lúc sinh thời Saint-Saëns, chỉ có một buổi trình diễn nhỏ toàn bộ tổ khúc dành cho nhóm bạn thân trong đó có Franz Liszt. Ngoại trừ khúc nhạc Thiên nga, Saint-Saëns không cho phép xuất bản Lễ hội muông thú khi ông còn sống, vì ông sợ rằng nó sẽ vượt trên các tác phẩm nghiêm túc hơn của ông. Hơn nữa, một năm trước đó, việc viết một tác phẩm dí dỏm và khá đơn giản là Wedding Cake (Chiếc bánh cưới) đã khiến ông bị mang tiếng là tác giả “nhạc nhẹ”. Toàn bộ tổ khúc Ngày hội của muông thú chỉ được xuất bản sau khi Saint-Saëns qua đời theo nguyện vọng và di chúc của ông. Nó trở thành một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Cùng với các tác phẩm Peter và chó sói của Prokofiev và Hướng dẫn về dàn nhạc cho người trẻ của Britten, Lễ hội muông thú cũng là tác phẩm được các em nhỏ và giáo viên dạy nhạc ưa thích vì rất rất phù hợp trong việc giảng dạy âm nhạc.
 Sau này nhà thơ Mỹ Frederic Ogden Nash (1902–1971), người nổi tiếng với các câu thơ vui nhộn và đầy hàm ý, đã viết một tập thơ hài hước tương ứng với mỗi khúc nhạc của tổ khúc Lễ hội muông thú của Camille Saint-Saëns. Những câu thơ dí dỏm này thường được ngâm lên trong các buổi trình diễn tổ khúc.
I- Introduction et marche royale du Lion (Introduction và Hành khúc hoàng gia của sư tử)
Có sự tham gia của các đàn dây và 2 piano. Phần introduction bắt đầu bằng 2 piano chơi tremolo đậm nét, các đàn dây tham gia vào bằng một chủ đề trang nghiêm. Sau đó piano trình bày một chủ đề hành khúc trong suốt phần còn lại của chương nhạc. Các đàn dây trình bày giai điệu và đàn piano thỉnh thoảng chạy những quãng tám thấp hoặc ostinato cao. Chương nhạc kết thúc bằng một nốt fortissimo ở tất cả các nhạc cụ.
Giới thiệu
Camille Saint-Saëns
Rất lấy làm phiền
Khi bị mọi người
Gọi là Saint-Sanes. (*1)
Vì tên ông chẳng thể phát âm,
Ông trách cứ loài người,
Nên ông quay sang dùng sáo
Và máy đếm nhịp để ngợi ca loài khác,
Im lặng nào – ông bắt đầu chào
Những loài có vây, lông vũ, lông mao.
Sư tử
Sư tử là vua của muôn loài,
Và là chồng của sư tử cái.
Linh dương và những con nó xơi tái
Gọi nó là tôn ông, điện hạ.
Ở châu Phi nơi thảo nguyên, rừng rậm
Có những con hâm mộ tiếng nó gầm,
Nhưng tôi nghĩ bất cứ nơi nào
Sử tử ở thì tôi không muốn ở.
II- Poules et Coqs (Lũ gà mái và gà trống)
Có sự tham gia của các đàn dây trừ double-bass ; 2 piano và clarinet. Chương nhạc này gợi nên hình ảnh một đàn gà với những tiếng gáy, tiếng mổ hạt. Clarinet chơi những đoạn solo âm lượng nhỏ khi các nhạc cụ còn lại tạm nghỉ.
Gà trống và gà mái
Gà trống là tên du côn om sòm,
Cúc-cù-cu là cuộc đấu tiếng.
Lũ gà mái trong ổ giương mắt,
Nó bỏ qua, huýt gọi mái tơ cơ.
III- Hémiones, animaux véloces (Những con lừa; những con thú nhanh nhẹn)
Có sự tham gia của 2 piano. Các con vật được mô tả ở đây rõ ràng là đang chạy và hình ảnh được gợi nên bằng chuyển động lên xuống nhanh nhẹn luống cuống không ngớt của cả hai piano chơi các gam quãng tám.
Con lừa hoang
Đã bao giờ bạn nghe tiếng lừa hoang,
Mà các chuyên gia gọi là lừa rừng trung Á ?
Tiếng nó kêu như tiếng cười của bé ngốc
Hay tiếng nhạc công jazz chơi hòa âm,
Nhưng đừng có chế nhạo lừa hoang,
Nó hô hố cũng theo cách thức
Như thỏ thẻ giọng và đỏ mặt thẹn ở con gái
Nàng lừa hoang đáp lại tiếng chàng lừa.
IV- Tortues (Những con rùa)
Có sự tham gia của các đàn dây và 1 piano. Một chương nhạc hơi trào phúng mở đầu bằng piano rồi các đàn dây thể hiện một cách chậm rãi đến khó chịu điệu “Can-Can” nổi tiếng trích từ operetta Orphée aux Enfers (Orphée ở địa ngục) của Offenbach.
Con rùa
Hãy đến đội đầu tôi vòng nguyệt quế,
Tôi hiểu rằng rùa vẫn là rùa,
Hãy khắc tên tôi lên bia đá ngàn đời,
Tôi hiểu rằng rùa vẫn là rùa,
Tôi hiểu nỗi tuyệt vọng tột cùng,
Tôi cược cho người thắng thỏ rừng thi chạy
Tôi cũng biết giờ đây tôi nghèo túng
Vì quá sai lầm, thật rùa, thật rùa.
V- L’Éléphant (Con voi) – Allegro Pomposo
Có sự tham gia của double-bass và 1 piano. Đây là bức tranh biếm họa hoàn hảo về một con voi. Double-bass ậm ừ trên nền nhịp valse của piano. Giống như chương “Những con rùa”, chương nhạc này khá hài hước – chất liệu chủ đề được lấy từ nhạc nền cho vở kịch Giấc mộng đêm hè của Felix Mendelssohn và Dance of the Silphs (Vũ điệu thiên tinh) của  Hector Berlioz. Cả hai chủ đề ban đầu đều được viết cho những nhạc cụ giọng cao (flute và những nhạc cụ gỗ khác, violin), trò đùa của Saint-Saëns là chuyển nó sang cho nhạc cụ có giọng thấp và nặng nề hơn trong dàn nhạc là double-bass.
Con voi
Những con voi là người bạn có ích,
Trang bị bằng cả mũi và đuôi,
Chúng có bộ da bị nhậy cắn nhăn nheo,
Răng mọc thò ra ngoài lộn xộn,
Nếu bạn nghĩ rằng voi lố bịch,
Có thể bạn chưa thấy mũi tê giác bao giờ.
VI- Kangourous (Những con kăng-gu-ru)
Có sự tham gia của 2 piano. Những cú nhảy quãng cách nhanh nhẹn và duyên dáng trên đàn phím miêu tả những con kăng-gu-ru.
Kăng-gu-ru
Kăng-gu-ru có thể nhảy rất siêu,
Nó phải nhảy vì người ăn thịt nó,
Tôi không ăn được thịt kăng-gu-ru,
Nhưng nhiều thổ dân Úc thì có,
Những người có bum-mơ-rang và sách dạy nấu,
Thì khoái bánh nhân thịt nó hơn.
VII- Aquarium (Bể nuôi cá)
Có sự tham gia của các đàn dây trừ double-bass, 2 piano, flute và glass harmonica. Đây là một trong những chương giàu tính âm nhạc nhất. Flute rồi đến các đàn dây chơi giai điệu trên nền âm thanh gợn sóng lăn tăn được piano và glass harmonica thể hiện.
Bể cá
Một số là săn sắt,
Một số là cá voi,
Người thích lúm đồng tiền,
Cá thì thích vảy đẹp,
Một số cá mảnh dẻ
Một số cá tròn mình,
Chúng chẳng bị cảm lạnh
Cũng chẳng chết đuối đâu,
Nhưng mọi bà bán cá
Lo cho cá của mình,
Loài ta gọi “người cá”
Cá gọi “cá mình người”.
VIII- Personnages à longues oreilles (Những nhân vật với đôi tai dài)
Có sự tham gia của 2 violin. Đây là chương ít tính trữ tình nhất trong tác phẩm. Hai đàn violin luân phiên nhau tạo nên những tiếng rít cao chói tai và những nốt thấp rì rầm khó có thể nghe ra giai điệu.
Những con la
Trong thế giới loài la
Làm gì có luật lệ
(Trong thế giới loài la, ha ha
Làm gì có luật lệ)
IX- Le coucou au fond des bois (Chim cu trong rừng sâu)
Có sự tham gia của 2 piano và clarinet. Piano chơi những hợp âm rộng mềm mại trong khi clarinet chơi ostinato hai nốt Đô và La giáng lặp đi lặp lại, bắt chước tiếng kêu của một tổ chim cu.
Chim cu gáy hoang
Lũ cu gáy sống đời sống hoang toàng,
Chúng lơ là trách nhiệm chồng và vợ,
Vì thế chúng làm mất thể diện
Mọi cuộc hôn nhân khác của người.
X- Volière (Chuồng chim)
Có sự tham gia của các đàn dây, 2 piano và flute. Các đàn dây giọng cao đảm nhận bè đệm, tạo ra tiếng rì rầm như tiếng động trong rừng, cello và double-bass chơi điểm nhịp dẫn vào hầu hết các ô nhịp. Flute đóng vai trò tiếng chim với giai điệu trill trải rộng trong tầm âm của nó. Hai piano thi thoảng tạo ra những tiếng chát chúa hay trill của những con chim khác. Chương nhạc kết thúc một cách lặng lẽ sau một tiếng vút cao của flute.
Những con chim
Puccini thuộc La-tinh, Wagner thuộc Giéc-manh,
Những con chim mãi thuộc philharmonic,
Các sân ngoại ô và cảnh thôn dã
Đầy những “Chị em nhà Andrew” chim. (*2)
Chim chiền chiện hót một đoản khúc chim,
Bài “Đường tới Mandalay” do quạ hát,
Chim sơn ca hát một bài hát ru,
Chim mòng biển hát bài ca mòng biển,
Dân chăn cừu ở Arcadia nghe thứ đó
Trước khi radio được phát minh.
XI- Pianistes (Những nghệ sĩ piano)
Có sự tham gia của các đàn dây và 2 piano. Saint-Saëns để chính các nghệ sĩ piano tham gia cùng bầy thú, mô phỏng những giờ tập gam của họ bằng một đoạn trải ra như bài thực hành đàn phím chán ngắt.
Những nghệ sĩ piano
Một số khẳng định những nghệ sĩ là người,
Và trích dẫn trường hợp của Truman.
Saint-Saëns thì đứng về phe kia,
Coi họ là một band xoàng xĩnh,
“Họ là tai họa và là khỉ không đuôi
Thay vì là con người” – ông nói.
XII- Fossiles (Những hóa thạch)
Có sự tham gia của các đàn dây, 2 piano, clarinet và xylophone. Tại đây Saint-Saëns đã bắt chước sáng tác của chính mình, bản Danse Macabre (Vũ khúc ma quỷ). Xylophone được sử dụng nhiều để gợi nên hình ảnh những bộ xương đang nhảy múa va đập vào nhau lách cách. Các chủ đề âm nhạc trong Danse Macabre cũng được trích dẫn; xylophone chơi phần lớn giai điệu và được piano và clarinet thay phiên. Bè piano ở đây đặc biệt khó với các quãng tám. Có thể nghe thấy các đoạn giai điệu trong ca khúc thiếu nhi “Twinkle Twinkle Little Star” và aria “Una Voce Poco Fa”  trích từ opera Il Barbiere di Siviglia của Rossini.
Những hóa thạch
Ở viện bảo tàng lúc nửa đêm,
Những hóa thạch tụ tập khiêu vũ,
Không có saxophone hay trống,
Chỉ có tiếng lách cách xương khô,
Lăn lộp cộp theo vòng thảnh thơi
Những điệu polka và mazurka ma mút,
Khủng long ăn cỏ và thằn lằn ngón cánh
Hát hợp xướng thời tiền sử linh thiêng
Ở giữa đám chè chén đến là vui
Tôi gặp cái nhìn một tiểu hóa thạch,
“Niềm vui tuyệt chủng” – nó nháy mắt ra hiệu.
“Hãy làm thế giới buồn phấn chấn lên”.
XIII- Le Cygne (Thiên nga)
Đây là khúc nhạc nổi tiếng nhất trong tổ khúc, được viết cho 2 piano và 1 cello nhưng cũng thường được sử dụng để phô diễn kĩ năng trình tấu của nghệ sĩ cello. Giai điệu được cello chơi trên nền hòa âm của hai đàn piano. Một piano thể hiện tiếng mặt nước lao xao, một piano thể hiện tiếng sóng cuồn cuộn.
 Thiên nga được viết tặng nghệ sĩ cello Charles-Joseph Lebouc đang về già, người nổi tiếng vì nghệ thuật trình diễn và vì là con rể của ca sĩ nổi tiếng Adolphe Nourrit. Saint-Saëns đã hứa soạn một tác phẩm solo dành cho nghệ sĩ này nhiều năm trước nhưng ông đã trì hoãn dự định  đó. Đến thời điểm Saint-Saëns soạn Lễ hội muông thú, Lebouc đã trở thành một đề tài bông đùa trong giới trình diễn đàn dây vì tuổi tác đã khiến ông trình diễn tồi đi. Một lần, ông đã trình diễn Thiên nga với vẻ êm ái cao độ khiến những đồng nghiệp chơi cello phải chú ý tới sự kỹ lưỡng trong cách chơi của ông.
Thiên nga
Thiên nga vừa ngồi vừa bơi được,
Đội mũ miện chỉ vì kiêu thôi mà,
Soi gương đi, soi gương lại rồi ca:
“Ta chưa từng nghe về Pavlova.”
 Trong đoạn thơ tương ứng với khúc nhạc Thiên nga, Frederic Ogden Nash có nhắc đến nữ diễn viên ballet huyền thoại người Nga Anna Pavlova (1881–1931). Lấy cảm hứng từ những con thiên nga trong công viên, Anna Pavlova đã cộng tác với biên đạo múa Michel Fokine để sáng tạo ra một vũ điệu ballet solo nổi tiếng có tên La Mort du Cygne (Cái chết của thiên nga). Kịch bản ballet này được dựa theo một bài thơ của Alfred Tennyson mà Michel Fokine đọc được còn nhạc nền chính là Thiên nga của Saint-Saëns. Ballet Cái chết của thiên nga được Anna Pavlova trình diễn lần đầu năm 1905.
 Ballet Cái chết của thiên nga đã trụ lại trong vốn tiết mục biểu diễn ballet và được vô số nữ diễn viên ballet biểu diễn, trong số đó có Madame Napierkowska và Maya Plisetskaia. Madame Napierkowska đã trình diễn tiết mục này trong một recital năm 1921 mà chính Saint-Saëns cũng có mặt chỉ vài tuần trước khi ông qua đời. Còn nữ diễn viên ballet người Nga Maya Plisetskaia đã trình diễn tác phẩm này vô số lần trong sự nghiệp biểu diễn dài dặc đã trở thành huyền thoại của mình. Thậm chí trong một gala nhân dịp sinh nhật 70 tuổi của mình (năm 1995), bà vẫn trình diễn nó rất tuyệt vời. Theo truyền thống, con thiên nga trong vũ điệu của Pavlova bị thương nặng và sắp chết. Tuy nhiên trong version ballet mới của Maya Plisetskaia năm 1995 thì thiên nga chỉ đơn giản là già nua nhưng vẫn ngoan cường chống lại sự khắc nghiệt tuổi tác như bản thân nghệ sĩ. Các diễn viên ballet khác cùng thế hệ với Maia đã nghỉ hưu từ lâu. Nhưng Maia vẫn bước lên sàn diễn, để múa ballet, để sống, để trị vì với niềm kiêu hãnh Thiên nga!
XIV- Finale
Có sự tham gia của tất cả các nhạc cụ. Phần Finale mở đầu bằng những nốt chạy tremolo ở đàn piano như trong phần Introduction. Những nhạc cụ hơi, harmonica và xylophone mau chóng tiếp viện. Dàn dây tạo nên sự căng thẳng bằng những nốt thấp dẫn vào phần glissando của piano, rồi tạm dừng trước khi giai điệu chính sôi động được trình bày. Mặc dù giai điệu khá đơn giản nhưng những hòa âm đệm theo được trang hoàng theo phong cách sáng tác cho piano của tác giả, những gam chói lọi, những nốt vuốt (glissando) và nốt láy (trill). Nhiều chương nhạc trước được trích dẫn tại đây : Introduction, Những con lừa, Gà mái và kăng-gu-ru. Tác phẩm kết thúc bằng một nhóm hợp âm Đô trưởng mạnh mẽ.
Grand Finale
Giờ ta đã đến phần Grand Finale,
Về vũ hội hóa trang loài vật,
Những tiếng ồn mới trên biển và đất,
Phát ra từ band nhóm tài năng,
Mọi đàn dây vặn xoắn đặc trưng,
Mô phỏng cho những loài sinh vật,
Mọi kèn đồng như càu nhàu phụng phịu
Bằng cách thổi ra tiếng ồm ồm
Vượt hẳn Barnum & Bailey và Ringling rồi. (*3)
Saint Saëns làm nên điều kỳ diệu.
Chú thích:
(*1) Cách chơi chữ của Frederic Ogden Nash: Saint-sane có nghĩa là vị thánh có đầu óc lành mạnh.
(*2) “Chị em nhà Andrew” (The Andrews Sisters) là tên một nhóm hợp ca ở Minnesota, Hoa Kỳ gồm 3 chị em: LaVerne Sophie Andrews, Maxene Angelyn Andrews và Patricia Marie  Andrews
(*3) Phineas Taylor Barnum (1810–1891) là một ông bầu Mỹ nổi tiếng, người thành lập ra các gánh xiếc Ringling Bros và Barnum & Bailey.
Ngọc Anh (nhaccodien.info) tổng hợp & dịch thơ