Francis Poulenc chào đời ngày 7/1/1899 tại Paris trong một gia đình tư sản phong lưu. Cha ông, Emile Poulenc, là người gốc Aveyron thuộc vùng Midi-Pyrénées, từ giám đốc một hãng dược phẩm rồi trở thành một nhà buôn chứng khoán Paris. Còn mẹ ông, Jenny Poulenc (tên thời con gái là Royer) là một nghệ sĩ piano nghiệp dư xuất thân trong một gia đình nghệ nhân. Poulenc về sau đã coi sự di truyền từ cả cha và mẹ như chìa khóa cho cá tính âm nhạc của mình : ông liên hệ lòng tin Cơ đốc giáo sâu sắc của mình với gốc rễ Aveyron và coi năng khiếu nghệ sĩ của mình là nhờ ở gia đình đằng mẹ. Chắc chắn cả hai mạch nguồn thế tục và tôn giáo đó đã cùng tồn tại trong tác phẩm của ông. Ông vừa là tác giả của Chansons gaillardes (Những khúc ca phóng túng) vừa là tác giả của bản Mass, vừa là tác giả của opera Les mamelles de Tirésias(Bầu ngực của Tirésias) vừa là tác giả của bản tụng ca tôn giáo Stabat mater. Hai mạch nguồn cảm hứng này đã được nhà phê bình Claude Rostand tổng kết trong một nhận xét trứ danh : “Trong Poulenc có cái gì đó của thầy tu và cái gì đó của kẻ ranh mãnh.”
 Mẹ Poulenc đã đưa con trai đến với đàn piano năm cậu lên 5 tuổi, rất lâu trước khi giao phó cậu cho một giáo viên vốn là thầy dạy của Cécile Boutet de Monvel, cháu gái của Franck. Mặc dù thể hiện rõ tài năng và thị hiếu âm nhạc, Poulenc vẫn tuân theo nguyện vọng của cha mình và hoàn thành chương trình học tập kinh điển theo thông lệ tại trường trung học Condorcet, điều kiện cần có lúc ấy  để được phép vào Nhạc viện. Nhưng chiến tranh và việc cha mẹ ông qua đời sớm (ông mất mẹ năm 16 tuổi và hai năm sau thì mất cha) đã làm đổ vỡ kế hoạch của ông. Từ năm 1914 đến 1917, Poulenc là học trò của Ricardo Viñes (1875 – 1943, nghệ sĩ piano nổi tiếng người Tây Ban Nha), người không những là thầy mà còn là cha tinh thần, là người được ông đề tặng và người biểu diễn những sáng tác đầu tiên của ông. Poulenc khẳng định rằng ảnh hưởng của Viñes đã quyết định sự nghiệp làm nghệ sĩ piano và nhà soạn nhạc của mình, nhờ có Viñes mà ông được làm quen với những nhạc sĩ danh tiếng khác như Auric, Satie và Falla. Poulenc cũng gặp gỡ những nhà thơ, nhà văn và chính trong khoảng thời gian ấy ông đã được một người bạn thời niên thiếu, luật sư và nhà Đông phương học tương lai là Raymonde Linossier đưa tới hiệu sách của Adrienne Monnier trên phố l’Odéon. Tại đây ông đã có đặc ân gặp gỡ Apollinaire, Eluard, Breton, Aragon, Gide, Fargue, Valéry và Claudel rồi trở nên quen thuộc với tác phẩm của họ.
 Nỗ lực sáng tác đầu tiên vào năm 1914 của Poulenc đã bị chính ông hủy bỏ. Ông khởi đầu lại tại Paris với tác phẩm đầu tay Rapsodie nègre (Rhapsody người da đen), đề tặng Satie và được biểu diễn tại Théâtre du Vieux Colombier trong một buổi hòa nhạc tiên phong do Jane Bathori tổ chức. Stravinsky, người mà Poulenc cảm thấy rõ ảnh hưởng, đã nhận bản nhạc và giúp ông xuất bản lần đầu tại nhà xuất bản Chester, Luân Đôn. Việc nhập ngũ bắt buộc từ tháng giêng năm 1918 đến tháng giêng năm 1921 không cản trở Poulenc sáng tác và trình diễn, đặc biệt là tác phẩm Trois mouvements perpétuels thu được thành công ngay lập tức và Le bestiaire – tập mélodie đầu tiên dựa trên thơ Apollinaire. Các tác phẩm của Poulenc thường được biểu diễn trong những buổi hòa nhạc tại xưởng vẽ của họa sĩ Emile Lejeune ở phố Huyghens thuộc khu Montparnasse, nơi chương trình cũng có cả tác phẩm của Milhaud, Auric, Honegger, Tailleferre và Durey. Chính điều này đã dẫn đến sự ra đời của “Nhóm Sáu” vào năm 1920, tên do Henri Collet đặt trong bài bình luận một buổi hòa nhạc có tác phẩm của cả sáu tác giả. Còn hơn cả việc có chung nguyên tắc thẩm mĩ là chống lại ảnh hưởng của hai trường phái âm nhạc có ảnh hưởng lớn thời bấy giờ là trường phái Hậu lãng mạn do Wagner khởi xướng và trường phái Ấn tượng của Ravel và Debussy, Nhóm Sáu đã đoàn kết bằng một tình bằng hữu bền chặt.
 Thay vì theo đuổi chương trình thông lệ, những năm tháng học tập của Poulenc đã phải chồng chéo với việc khởi đầu sự nghiệp. Ông đã có tiếng tăm nhất định khi tiếp cận với Charles Koechlin vào năm 1921 để xin làm học trò bởi vì cho đến lúc đó ông đã “tuân theo tiếng gọi của bản năng hơn là trí óc”. Ông tiếp tục theo học Koechlin khi nhận được hợp đồng từ Diaghilev cho vở ballet Nga Les biches, biểu diễn lần đầu tại Monte Carlo năm 1924 và được cả công chúng lẫn giới phê bình đón nhận. Là người của cả giới trí thức lẫn nghệ sĩ, Poulenc hay lui tới với giới thượng lưu Paris, vào thời kỳ mà những nhà bảo trợ tư nhân vẫn đóng một vai trò quan trọng trong đời sống âm nhạc. Phu nhân Edmond de Polignac (tại tư gia của bà, ông đã gặp nghệ sĩ harpsichord Wanda Landowska – người được ông đề tặng và người biểu diễn lần đầu tác phẩm Concert champêtre) đã đặt ông viết một bản Concerto cho hai đàn piano và bản Concerto cho organ. Trong khi đó, Aubade và Le bal masqué được sáng tác cho những sự kiện do Marie-Laure và Charles de Noailles tổ chức. Poulenc nhanh chóng nhận thấy rằng máy hát sẽ đóng một vai trò lớn trong việc truyền bá âm nhạc và những bản thu âm đầu tiên của ông đã được thực hiện từ năm 1928. Ông đã phải chịu đựng cơn suy sụp nghiêm trọng đầu tiên vào cuối những năm 1920, chính vào khoảng thời gian ông nhận thức đầy đủ về tình trạng đồng tính của mình. Nỗi đau do cái chết của Raymonde Linossier vào năm 1930 rất lâu sau mới thành sẹo. Những bức thư của ông đã tiết lộ rằng cô là người phụ nữ duy nhất ông muốn kết hôn. Trong suốt cuộc đời, những bức thư của ông đã chứng thực sự phức tạp của đời sống tình cảm, điều liên quan gần gũi với sáng tạo của ông. Chúng cũng tiết lộ việc ông có một cô con gái sinh năm 1946. Tùy thuộc vào chu kỳ rối loạn thần kinh, Poulenc luôn hồi phục từ suy sụp để bước vào những giai đoạn hăng hái và lần lượt bị ám ảnh bởi hoài nghi và mãn nguyện.
 Các bước ngoặt cuộc đời của Poulenc vào những năm 1930 là việc hình thành duo sáng tác – biểu diễn với baritone Pierre Bernac và sự ra đời những tác phẩm tôn giáo đầu tiên. Năm 1934 ông quyết định khởi đầu sự nghiệp trên bục hòa nhạc với Bernac, người mà rốt cuộc ông đã viết tặng khoảng 90 mélodie, dành riêng cho những buổi recital của họ. Sự cộng tác này kéo dài cho đến tận năm 1959. Nhịp điệu cuộc sống của Poulenc từ đó được luân phiên bằng những thời kỳ sáng tác. Ông chia cuộc sống giữa Paris, nơi ông duy trì những liên hệ gan ruột, và ngôi nhà tại Noizay ở Touraine, nơi ông ẩn dật để sáng tác. Ông bị ảnh hưởng sâu sắc bởi cái chết của nhà soạn nhạc Pierre-Octave Ferroud nhưng một cuộc hành hương tới Nhà thờ Đức Bà ở Rocamadour vào năm 1936 đã làm hồi sinh lòng tin Cơ đốc giáo của ông, kết quả ngay lập tức của điều này là tác phẩm Litanies à la vierge noire (Kinh nguyện cầu Đức mẹ da đen).
 Poulenc đã trải qua phần lớn thế chiến thứ hai tại Noizay, thuộc vùng Đức chiếm đóng. Tại đó ông đã sáng tác, đáng kết nhất là Les animaux modèles, công diễn lần đầu tại Paris Opéra năm 1942 và tác phẩm hợp xưởng cho 12 giọng Figure humaine, phổ những bài thơ mà Eluard bí mật xuất bản được. Vở opera đầu tiên của ông, Les mamelles de Tirésias (Bầu ngực của Tirésias) được công diễn lần đầu tại nhà hát Opéra-Comique vào năm 1947 và là khởi đầu cho sự cộng tác với soprano Denise Duval, người trở thành nữ ca sĩ diễn chính ưa thích của ông. Năm 1948 chứng kiến việc mở rộng sự nghiệp quốc tế của Poulenc khi ông tiến hành chuyến lưu diễn đầu tiên tại Hoa Kỳ. Ông còn quay lại đó thường xuyên cho tới tận năm 1960 để tổ chức hòa nhạc với Bernac hoặc với Duval, hay để tham dự buổi công diễn lần đầu một số tác phẩm của mình, đặc biệt là bản Piano Concerto do dàn nhạc giao hưởng Boston đặt viết. Giữa những năm 1847 và 1849, ghi nhận ảnh hưởng quan trọng của phương tiện phát thanh, ông lên kế hoạch và thực hiện một loạt chương trình trên sóng đài phát thanh quốc gia Pháp.
 Trong những năm 1950 ông là một nhà soạn nhạc tận tâm : tính độc lập cao, chủ tâm giữ khoảng cách với xu hướng âm nhạc của thời đại trong khi vẫn chú ý tới những gì đang diễn ra ở đó. Ông đã tới Vienna để gặp Schoenberg năm 1922 và từ sự khởi đầu giữa họ, ông ủng hộ những buổi hòa nhạc thể loại musical. Trong số những sáng tác của ông thập niên này, vở opera Dialogues des Carmélites (Đối thoại của những nữ tu dòng Carmelite) do nhà hát La Scala ở Milan đặt viết đã nhanh chóng thu được thành công quốc tế và vở La voix humaine (Giọng người) đánh dấu 50 năm tình bạn với Jean Cocteau.
 Vào ngày 30/1/1963, Francis Poulenc đột ngột qua đời tại căn hộ của ông ở Paris và để lại một kho tàng sáng tác khá lớn : 3 vở opera, khoảng 150 mélodie, nhiều tác phẩm cho piano và dàn nhạc, concerto cho 2 piano, concerto cho organ, concerto cho harpsichord, 4 bản sonata cho các nhạc cụ hơi với phần đệm piano, nhiều mass… Poulenc chưa bao giờ đặt vấn đề về tính ưu việt của hệ thống âm hình. Những gam nửa cung trong âm nhạc của ông chỉ là thoáng qua, cho dù ông sử dụng quãng bẩy giảm nhiều hơn bất cứ nhà soạn nhạc hàng đầu nào kể từ Verdi. Về kết cấu, nhịp điệu, hòa âm, ông không có sáng tạo đặc biệt. Với ông yếu tố quan trọng nhất trong tất cả là giai điệu và ông đã tìm thấy con đường của mình để tới một kho tàng mênh mông những giai điệu chưa được khám phá trong một vùng mà theo bản đồ âm nhạc mới nhất thì đã được khảo cứu, khai thác và kiệt quệ. Tuyên bố dứt khoát của ông có lẽ là trong một bức thư ông viết năm 1942 : “Tôi biết một cách thấu đáo rằng tôi không phải là một trong những nhà soạn nhạc đã làm nên những cách tân về hòa âm như Igor (tức Stravinsky), Ravel hay Debussy, nhưng tôi nghĩ có một phạm vi cho âm nhạc mới mà không ngại sử dụng những hợp âm của dân tộc khác. Đó không phải là trường hợp của Mozart – Schubert ư ?” Và nếu Poulenc không hoàn toàn là một Schubert thì ông nằm trong số những ứng cử viên xứng đáng nhất của thế kỉ 20 cho vị trí kế tục này.

Ngọc Anh (nhaccodien.info) tổng hợp