Nội dung
TIỂU SỬ
“Lorin Maazel đã đưa ra một mức độ mới về khả năng và độ tinh tế của dàn nhạc, những ca từ được mài giũa với sự biến ảo vô cùng của màu sắc và sắc thái.” – Robert Croan
Nói sự nghiệp của Lorin Maazel là sáng chói, tuyệt vời chỉ là một cách nói nhẹ đi mà thôi. Bước vào làng chỉ huy khi mới chỉ có 8 tuổi, ông đã chỉ huy những dàn nhạc lớn nhất trên thế giới, tạo nên sự huyền thoại về những buổi biểu diễn không thể nào quên và những bản ghi âm xuất sắc với một repertoire chuẩn mực. Những bản thu âm các vở opera của Giacomo Puccini là một ví dụ, nó đã tạo ra những chuẩn mực biểu diễn mới, làm nổi bật lên sự mãnh liệt và giàu xúc cảm trong âm nhạc của Puccini. Trong khi rất nhiều nhạc trưởng dàn dựng opera theo xu hướng biểu diễn với phần nhạc đệm có sẵn, Maazel lại coi dàn nhạc là một nhân tố không thể thiếu trong biểu diễn vì nhạc cụ được xem như một thước đo sự chuẩn mực của giọng hát. Maazel cũng còn là một nhà chỉ huy khí nhạc đại tài với những bản ghi âm vô tiền khoáng hậu các bản giao hưởng của Ludwig van Beethoven, Gustav Mahler hay Jean Sibelius.
Lorin Maazel sinh ngày 6 tháng 3 năm 1930 tại Neuilly-sur-Seine, là thế hệ người Mĩ thứ 2 sinh ra ở Paris. Thiên tài kiểu như Maazel là một điều mà ngay chính khoa học cũng chưa thể lí giải nổi: tốc độ xử lí hoàn hảo và một trí nhớ phi thường, ông say mê âm nhạc trong sự phức tạp khôn cùng của nó, một cách rất tự nhiên không hề có chút dấu vết của sự gò ép. Ông bắt đầu những bài học violin từ năm 5 tuổi ở Los Angeles, nơi gia đình ông đã chuyển tới không lâu sau khi sinh hạ ông, ông đã nhanh chóng đạt tới một trình độ virtuoso thực sự. Tuy nhiên, ngay từ thời điểm này, niềm đam mê của ông chính là chỉ huy dàn nhạc và ông theo học chỉ huy với Vladimir Bakaleinikov năm 7 tuổi. Maazel xuất hiện đầu tiên trước công chúng năm lên 8, khi chỉ huy University of Idaho Orchestra với tác phẩm Giao hưởng số 8 giọng Si thứ “Unfinished”, D. 759 của Franz Schubert. Năm 1938, khi Bakaleinikov chấp nhận làm trợ lý chỉ huy cho Pittsburgh Symphony Orchestra, gia đình Maazel đã phải chuyển đến Pittsburgh để nhà chỉ huy trẻ có thể tiếp tục theo học với thầy mình. 9 tuổi ông có một buổi debut ở New York tại New York World’s Fair cùng Interlochen Orchestra. Cũng trong năm 1939 này, Maazel chỉ huy Los Angeles Philharmonic ở Hollywood Bowl, chia sẻ sân khấu cùng với Leopold Stokowski. Hai năm sau ông chỉ huy NBC Symphony Orchestra khi có lời mời từ đích thân Arturo Toscanini. Buổi ra mắt của ông cùng New York Philharmonic diễn ra vào ngày 5 tháng 8 năm 1942 khi ông mới chỉ 12 tuổi. Các tác phẩm trong chương trình là Overture “Le nozze di Figaro” của Wolfgang Amadeus Mozart, Tổ khúc “The Nutcracker” của Peter Ilyich Tchaikovsky và Giao hưởng số 5 giọng Đô thứ, Op. 67 của Ludwig van Beethoven. Trong khoảng thời gian từ 9 đến 15 tuổi, Maazel thường xuyên biểu diễn cùng hầu hết những dàn nhạc lớn tại Mĩ.
Giống như những thiên tài âm nhạc khác, Maazel nổi trội trên rất nhiều lĩnh vực, tinh thông nhiều ngoại ngữ và các mặt khác nữa của cuộc sống. Năm 17 tuổi, ông theo học ngôn ngữ học hiện đại, toán học và triết học tại trường Đại học Pittsburgh. Thời kì là sinh viên, ông là một violinist của Pittsburgh Symphony Orchestra và là một chỉ huy tập sự trong suốt mùa diễn 1949 – 1950 đồng thời thành lập Pittsburgh Fine Arts Quartet. Năm 1951, học bổng Fulbright (để nghiên cứu âm nhạc Baroque) đã đưa ông đến Italy, chính tại đây ông đã bước vào sân khấu âm nhạc quốc tế. Và 2 năm sau ông đã có buổi chỉ huy đầu tiên ở châu Âu, thay cho một nhạc trưởng đang bị ốm ở nhà hát Massimo Bellini tại Cantania, Italy. Buổi biểu diễn này đã đưa ông đến với Anh, Đức và Áo sau đó. Năm 1960, Maazel đã có buổi debut tại London, chỉ huy BBC Symphony Orchestra trong một buổi biểu diễn âm nhạc của Mahler rất đáng nhớ. Sau thành công ở London, cùng năm đó ông đã làm nên lịch sử khi là người Mĩ đầu tiên chỉ huy ở Bayreuth Festival vở opera của nhà soạn nhạc người Đức Richard Wagner. Sự thể hiện của Maazel trong Lohengrin tuyệt vời đến nỗi ông lại trở thành khách mời của nhà hát trong mùa diễn 1968 – 1969 với trọn bộ 4 vở opera trong chùm Ring of the Nibelungen. Những thành công tiếp theo của ông là biểu diễn cùng Boston Symphony Orchestra năm 1961 và tại Salzburg Festival năm 1963.
Sau buổi ra mắt ở Metropolitan Opera, New York vào ngày 1 tháng 11 năm 1962 (chỉ huy Don Giovanni của Wolfgang Amadeus Mozart với sự góp mặt của Cesare Siepi, Eleanor Steber, Nicolai Gedda, Gabriella Turci, Ezio Flagello và Roberta Peters), Maazel trở thành một trong những nhà chỉ huy opera được đánh giá cao nhất thế giới. Trong khi ông đang mải mê với các dự án âm nhạc, tạo dựng các mối quan hệ với hầu hết những dàn nhạc lớn trên thế giới, Maazel dường như lại phát hiện ra thiên hướng chỉ huy opera của mình. Năm 1965, khi ông dàn dựng và chỉ huy vở Evgeny Onegin của Peter Ilyich Tchaikovsky tại Rome, Maazel đã nhận được lời mời từ Deutsche Oper ở Berlin, Tây Đức, với vai trò giám đốc nghệ thuật. Tại Deutsche Oper, Maazel đã không chỉ biểu diễn các vở opera truyền thống một cách đặc sắc mà còn mạo hiểm tham gia vào lĩnh vực ít thông dụng hơn là dàn dựng các vở opera ít được biết đến của thế kỉ 20. Năm 1968 ông đã chỉ huy ra mắt trên phạm vi toàn thế giới vở opera Ulisse của Luigi Dallapiccola.
Mối bận tâm của Maazel trong suốt những năm 1970 là Cleveland Orchestra, mà ông đã dẫn dắt từ 1972 – 1982, mở rộng vốn tiết mục của dàn nhạc và tạo ra một phong cách tiếp cận opera mới. Tổng cộng, ông đã cùng dàn nhạc biểu diễn hơn 700 buổi và thực hiện 7 chuyến lưu diễn quốc tế.
Sau một thập kỉ gắn bó với một dàn nhạc lớn như vậy (Cleveland Orchestra thuộc nhóm “Big Five” – bao gồm 5 dàn nhạc lớn nhất của Mĩ), Maazel đã sẵn sàng cho những thử thách mới. Cơ hội đến với ông vào năm 1982 khi có lời mời ông làm tổng giám đốc kiêm giám đốc nghệ thuật của Vienna Staatsoper (State Opera). Chấp thuận lời đề nghị này, ông lại một lần nữa làm nên lịch sử khi là nhạc trưởng Mĩ đầu tiên lãnh đạo nhà hát danh giá này. Có thể nói, việc lựa chọn Maazel – một nhạc trưởng có vốn tiếng Đức hoàn hảo và sở hữu những hiểu biểt sâu sắc về opera Đức – là một sự lựa chọn hoàn hảo. Trên nhiều khía cạnh, khi là một nhà chỉ huy, ông chính là người mà nhiều nhà hát mơ ước có được.
Thật không may là tài năng của ông lại không phù hợp với chính trường opera Vienna đầy bấp bênh. Nản lòng với sự can thiệp của chính trị, Maazel quay trở về Mĩ năm 1984. Ông nhanh chóng chấp nhận vị trí tư vấn âm nhạc (giám đốc âm nhạc) cho Pittsburgh Symphony Orchestra (dàn nhạc gắn bó với ông từ thời trai trẻ) từ 1988 – 1996. Ông là thành viên danh dự của Israel Philharmonic năm 1985 khi ông chỉ huy trong buổi hoà nhạc nhân kỷ niệm 40 năm thành lập của dàn nhạc này. Trong suốt những năm 1980 và năm 1990, Maazel vẫn giữ được mối quan hệ tốt với các dàn nhạc châu Âu, chỉ huy buổi hoà nhạc năm mới nổi tiếng của Vienna Philharmonic (New year’s concert) từ 1980 – 1986, và các năm 1994, 1996, 1999 và 2005 (thông thường thì Maazel cũng góp vui với vai trò vilonist). Ông cũng là một trong những nhạc trưởng khách mời chính của Berlin Philharmonic – mà ông cộng tác lần đầu từ thập niên 60. Berlin Philharmonic đã trao tặng ông giải thưởng danh dự Hans von Bülow Silver Medal. Năm 1993 ông trở thành giám đốc âm nhạc của Bavarian Radio Symphony Orchestra, vị trí này đã nhanh chóng nhận được sự bận tâm của dư luận, kể cả những mối bận tâm về lương bổng của một giám đốc mới, những mối bận tâm đó đôi khi hơi quá đà. Những người bảo trợ của Maazel đã đáp lại những chỉ trích này bằng cách chỉ rõ sự rộng lượng của nhà chỉ huy, bao gồm những buổi biểu diễn từ thiện cho các tổ chức như UNICEF hay Hội Chữ Thập Đỏ Quốc Tế. Trên thực tế, ông cũng có một lòng tận tâm mạnh mẽ trong các hoạt động bảo vệ môi trường cũng như nhân đạo. Ông đã kêu gọi và quyên góp được hàng triệu đôla thông qua hơn 50 buổi biểu diễn, các hoạt động thiết thực của UNESCO hay UNHCR đều được ông đóng góp rất nhiệt tình. Năm 2002, ông trở thành nhạc trưởng chính của New York Philharmonic thay thế cho Kurt Masur.
Trong hơn 50 năm qua, Lorin Maazel đã trở thành một trong những nhạc trưởng được kính trọng và chào đón nhất trên thế giới. Giờ đây ông còn nắm giữ 3 chức vụ rất quan trọng, ở 3 nơi hoàn toàn khác nhau và cùng lúc hoàn thành xuất sắc tất cả những công việc trên các cương vị đó. Ông đã là giám đốc âm nhạc của New York Philharmonic qua 5 mùa diễn, một dàn nhạc không chỉ là lâu đời nhất của nước Mĩ mà còn tích cực nhất trên thế giới với hơn 14000 buổi trình diễn kể từ khi được thành lập đến bây giờ. Trên một lĩnh vực không kém phần quan trọng khác Maestro Maazel còn là giám đốc âm nhạc của hai dàn nhạc mới được thành lập: Palau de les Arts Reina Sofia (mùa diễn đầu tiên là 2006 – 2007) với nhà hát được Santiago Calatrava thiết kế đặt tại Valencia, Tây Ban Nha và Symphonica Toscanini của Italia (thành lập tháng 5 năm 2006), một dàn nhạc có cấu trúc độc nhất với các nghệ sĩ biểu diễn chuyên nghiệp trẻ trung, đặt tại Rome, Ý nhưng lại thường xuyên lưu diễn vòng quanh thế giới.
Mùa diễn 2007 – 2008 của Maestro Maazel được đánh dấu bằng tour diễn châu Á lần thứ 3 của ông cùng New York Philharmonic, một Tchaikovsky Festival ở New York, một buổi biểu diễn trên truyền hình quốc gia vào đêm Giao thừa với soloist là nghệ sĩ violin Joshua Bell và các buổi biểu diễn của vở Tosca, với lịch làm việc kín đặc. Ở “Palau de les Arts” ông sẽ chỉ đạo sản xuất vở Carmen của Georges Bizet (đạo diễn Carlos Saura, mở màn mùa diễn ở Valencia), Don Carlo (Giuseppe Verdi) và Madama Butterfly (Puccini), cũng như một số chương trình hoà nhạc khác kể cả Requiem của Verdi. Với Symphonica Toscanini, sau chuyến lưu diễn đầu mùa sớm ở Nam Mĩ và Nhật Bản, ông sẽ chỉ đạo chỉ huy các bản giao hưởng của Beethoven ở Milan, rồi tới Jerusalem với Reqiuem của Verdi, chỉ huy bản Giao hưởng số 9 giọng Rê thứ, Op. 125 của Beethoven tại Nghị viện Châu Âu ở Brussels và lễ kỉ niệm 500 năm sự ra đời bức danh hoạ Sistine Chapel của Michelangelo với buổi diễn oratorio The Creation của Joseph Haydn cũng tại đây vào tháng 3. Với tư cách nhạc trưởng khách mời, lần đầu tiên ông quay về Metropolitan Opera sau hơn 40 năm để chỉ huy vở Die Walküre của Wagner và có một số buổi diễn với Vienna Philharmonic, National Symphony Orchestra (ở Washington DC), Los Angeles Philharmonic và với Norwegian National Opera nhân dịp khánh thành 1 nhà hát mới ở Oslo. Tháng 6 năm 2008, ông sẽ bắt tay vào làm một serie các concert với Philharmonia Orchestra, London với các tác phẩm của Johannes Brahms, đây là lần đầu tiên của chương trình hợp tác thường niên giữa ông và Philharmonia Orchestra.
Một khía cạnh khác trong sự nghiệp của Maestro Maazel mà chúng ta không thể không nhắc đến, đó là sáng tác. Ông đã là tác giả của một khối lượng lớn các tác phẩm đã được viết trong hàng chục năm qua. Vở Opera đầu tiên của ông 1984, dựa trên một tác phẩm văn học của George Orwell, được công diễn lần đầu tiên ở Royal Opera House, Convent Garden tháng 5 năm 2005, được truyền trực tiếp qua song phát thanh và sóng truyền hình của đài BBC cũng như trên sóng phát thanh của rất nhiều các nước khác. Một video chất lượng cao 1984 được sản xuất, ghi âm ở Convent Garden đã được trình chiếu lần đầu tiên và trở thành một trong những sự kiện trung tâm của Midem Festival 2006 tại Cannes – Pháp (với sự kiện này MIDEM đã trao tặng Maestro Maazel một giải thưởng đặc biệt cho những thành tựu mà ông đã đạt được với cương vị là một nhạc trưởng, nhà soạn nhạc và nghệ sĩ ghi âm, giải thưởng này mới chỉ được trao tặng 2 lần trước đó). Sự trở lại của 1984 đang được đưa vào lịch biểu diễn của một số nhà hát lớn khác, bắt đầu vào tháng 5 năm 2008 tại Teatro alla Scala (Milan) cũng như một số nhà hát khác. Catalogue các tác phẩm của Maazel còn phải kể đến bộ 3 concerto Op. 10, 11 và 12: “Music for Cello and Orchestra” dành tặng Mstislav Rostropovich, “Music for Flute and Orchestra” viết cho James Galway và “Music for Violin and Orchestra”; “Farewells-symphonic movement” op.14, được Vienna Philharmonic công diễn năm 2000 và vài vở kịch viết lại cho dàn nhạc gồm có 2 câu chuyện dành cho thiếu nhi là “The Giving Tree” và “The empty pot”. Ông ưa thích phối âm lại các tác phẩm viết cho violin và piano của các nhạc sĩ thế kỉ 19 và 20, hay chuyển soạn các bài hát Ý thế kỷ 17 cho violin, tenor cùng dàn nhạc, chính Andrea Bocelli cùng London Symphony Orchestra (Maazel lúc đó vừa làm chỉ huy vừa là violinist) đã có một bản ghi âm bestseller khi thu âm các tác phẩm này. Sự tổng hợp phần âm nhạc của ông trong các vở Der Ring des Nibelungencủa Wagner (lấy tên là “The Ring without words”) đã được rất nhiều dàn nhạc hàng đầu trên thế giới biểu diễn.
Từ khi khởi đầu sự nghiệp đến nay, Maazel đã chỉ huy tới hơn 150 dàn nhạc và không ít hơn 5000 buổi trình diễn kể cả opera lẫn khí nhạc. Ông đã có được hơn 300 bản thu âm gồm trọn bộ các bản giao hưởng (thơ giao hưởng, tác phẩm khí nhạc) của các nhạc sỹ Ludwig van Beethoven, Johannes Brahms, Claude Debussy, Gustav Mahler, Franz Schubert, Peter Ilyich Tchaikovsky, Jean Sibelius, Sergei Rachmaninov và Richard Strauss, dành được 10 Grands Prix du Disques. Trong danh mục các bản thu âm của mình, ông có hẳn một dòng dành riêng cho violin, thường được ông ghi âm trong khi thể hiện cả 2 vai trò soloist và conductor, từ những concerto virtuoso của Mozart đến Soldier’s Tale của Igor Stravinsky. Ông đã nhận đến 2 giải thưởng ASCAP (American Society of Composers, Authors and Publishers) vì những cống hiến của mình cho nền âm nhạc Mĩ cũng như sự xuất hiện ở hầu hết các trung tâm âm nhạc lớn của thế giới và mọi festival âm nhạc quốc tế đình đám. Ông đã từng chỉ huy rất nhiều các buổi ra mắt của cả những nhà soạn nhạc đã danh tiếng lẫn những ngôi sao đầy triển vọng của thế giới nhạc cổ điển, và ông cũng biểu diễn tại hàng trăm concert với tư cách như một nghệ sĩ violin, kể cả biểu diễn cùng các dàn nhạc như Vienna Philharmonic, London Symphony Orchestra, Philharmonia Orchestra, New York Philharmonic hay những dàn nhạc khác nữa.
Bên cạnh hoạt động biểu diễn đầy bận rộn của mình, Maazel còn dành thời gian để làm việc cùng và đào tạo các nghệ sĩ trẻ, trên nền tảng một niềm tin mãnh liệt ông chia sẻ những kinh nghiệm quý báu của mình cho thế hệ các nhạc sĩ tiếp sau. Ông đã tổ chức một cuộc thi lớn giữa các nhạc trưởng trẻ năm 2000, đỉnh điểm là vòng chung kết 2 năm sau đó ở Carnegie Hall, và ông đã là một cố vấn rất tích cực cho những người đã lọt được vào vòng chung kết. Thông qua quỹ Châteauville Foundation của mình ở Castleton, Virginia, ông đã tạo ra một liên hoan âm nhạc mới dành cho các nghệ sĩ trẻ, tập trung đầy đủ xung quanh sân khấu của phòng hoà nhạc, cùng truyền cảm hứng cho nhau, từ các ca sĩ, các nhạc công, các nhà chỉ huy, các nhà thiết kế, các đạo diễn và ban quản lí nhân sự sân khấu cùng làm việc trong một môi trường hợp tác và tập trung cao độ, với sự hướng dẫn của những nghệ sĩ hay nhà tư vấn hàng đầu, tất nhiên gồm cả Maestro Maazel.
Maestro Maazel nói thông thạo 3 thứ tiếng là Pháp, Đức và Ý (và có biết chút ít các tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Nga). Ông đã tạo nên những chương trình mới với mục đích đưa nhạc cổ điển tới với số đông thính giả hơn. Các dự án này có cả version truyền hình tổ khúc “The Planets” của Gustav Holst và “The Four Seasons” của Antonio Vivaldi, cũng như phiên bản phim của Don Giovanni của Mozart (đạo diễn Joseph Losey) và Carmen của Bizet (đạo diễn Fracesco Rossi). Và cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi năm 2003 Maazel đa tài trở thành người kể chuyện (bằng 6 thứ tiếng) trong 6 bản thu âm khác nhau tác phẩm dành cho thiếu nhi “Peter and the Wolf” của Sergei Prokofiev.
Các danh hiệu, huân huy chương và giải thưởng mà ông từng nhận được gồm có “Commander’s Cross of Merit” của Cộng hoà Dân chủ Đức, “Legion of Honor” của Pháp, “Knight Grand Cross” từ Cộng hòa Italia và “Commander of the Lion” của Phần Lan. Ông cũng được trao giải thưởng mang tên “Goodwill Ambassador” của Liên Hợp Quốc.
Một con mọt sách, một tín đồ của điện ảnh và các nhà hát, Maazel cũng rất thích chơi tennis, bơi lội và sưu tầm các bức tranh của Mĩ cùng các tác phẩm nghệ thuật Phương Đông. Với tư cách một nhạc trưởng, Lorin Maazel thuộc về số ít những nghệ sĩ tinh hoa tầm cỡ thế giới. Và chính vì ông là một nghệ sĩ nên ông tin rằng âm nhạc không chỉ là tài sản của những vĩ nhân mà nó thuộc về tất cả mọi người.
Lê Thanh Huyền (nhaccodien.info)
Bình luận Facebook