Nội dung
TIỂU SỬ
“Ở bên Julius giống như đang đứng trên một dòng sông chảy xiết. Sự nhiệt tình – năng lượng tuyệt đối – Julius vùi đầu vào với bất cứ thứ gì khiến anh ấy yêu thích và chắc chắn sẽ cuốn theo những người bạn đồng hành. Sức mạnh của anh ấy đã tác động đến tất cả chúng tôi.” – Gary Graffman
Khi nói đến những nghệ sĩ piano xuất sắc của Mĩ, những người được sinh ra, đào tạo và có được một sự nghiệp danh tiếng tại đây sau Thế chiến thứ hai, các tín đồ của nhạc cổ điển thường nghĩ ngay đến một số cái tên như Van Cliburn, Leon Fleisher, Gary Graffman, Earl Wild, Byron Janis hoặc thế hệ sau đó với Murray Perahia, Garrick Ohlsson, Stephen Kovacevich hay Emanuel Ax. Đó là những nghệ sĩ xuất sắc, có một sự nghiệp biểu diễn và thu âm đáng nể trọng. Nhưng dường như không còn nhiều người nhớ tới Julius Katchen, một thần đồng từng biểu diễn trước khán giả trong một bản concerto khi chỉ mới 10 tuổi và khi ở giai đoạn sung sức nhất của mình, là một cái tên được chào đón tại khắp các phòng hoà nhạc danh giá trên thế giới. Ông qua đời vì ung thư ở tuổi 42, độ tuổi tràn trề sức sáng tạo của một người nghệ sĩ. Đó có lẽ là lý do khiến tên tuổi của Katchen ngày nay không còn được nhắc đến nhiều. Nhưng qua những di sản mà ông để lại, chúng ta có thể không ngại ngần mà khẳng định rằng Katchen hoàn toàn xứng đáng nằm trong số những cái tên xuất sắc nhất mà nền piano cổ điển của nước Mỹ và thế giới có được trong thế kỷ 20.
Julius Katchen sinh ngày 15/8/1926 tại Long Branch, New Jersey trong một gia đình có truyền thống âm nhạc. Ông bà ngoại cậu bé vốn là những giảng viên âm nhạc tại các nhạc viện ở Moscow và Warsaw, di cư đến Mỹ và là chủ của một studio âm nhạc. Mẹ cậu, Lucille từng theo học piano tại American Conservatory, Fontainebleau còn cha cậu, ông Ira là một luật sư nhưng cũng là một nghệ sĩ violin nghiệp dư khá cừ khôi. Được ông bà ngoại hướng dẫn học âm nhạc ngay từ khi còn nhỏ, Julius lập tức cho mọi người thấy mình là một thần đồng về piano. Khi lên 10 tuổi, cậu đã biểu diễn bản Concerto piano số 20 của Wofgang Amadeus Mozart tại Newark. Câu chuyện về tài năng thiên bẩm của Julius đã đến tai nhạc trưởng Eugene Ormandy và một năm sau đó ông đã mời cậu biểu diễn chính tác phẩm này cùng Philadelphia Orchestra vào ngày 21/10/1937 tại Philadelphia Academy of Music. Và cũng với Concerto piano số 20, Julius có buổi biểu diễn ra mắt New York Philharmonic tại Carnegie Hall với nhạc trưởng John Barbirolli vào ngày 22/11/1937. Howard Taubmann đã có bài bình luận trên tờ New York Times sau đó: “Áo sơ mi trắng thấp cổ, quần dài đến đầu gối, giầy và tất màu đen. Trong khi chờ đợi tín hiệu dành cho mình, cậu xoa tay lên đầu gối và có vẻ háo hức với công việc của mình. Những ngón tay của cậu rất chắc chắn, linh hoạt và chính xác. Người ta khó có thể đòi hỏi gì hơn ở một cậu bé 11 tuổi.” Còn nhà phê bình Lawrence Gilman đã nhiệt tình so sánh trình độ của cậu với một thần đồng trước đó, Josef Hofmann. Sau này Katchen thực hiện thu âm tác phẩm này cùng nhạc trưởng Karl Münchinger và Stuttgart Chamber Orchestra cho hãng Decca vào năm 1967, cùng với bản Concerto piano số 25 của Mozart. Năm 12 tuổi, cậu thực hiện một buổi độc tấu tại Toà thị chính New York. Và vào ngày 6/7/1939, Julius tiếp tục thực hiện một buổi hoà nhạc cùng New York Philharmonic. Lần này là trong một chương trình định kỳ ngoài trời, tại sân vận động Lewisohn, cậu đã biểu diễn bản Concerto piano của Robert Schumann cùng nhạc trưởng Efrem Kurtz. Cũng xuất hiện trong buổi hoà nhạc còn có thần đồng violin 10 tuổi, cô bé Patricia Travers với tác phẩm Symphonie Espagnole của Édouard Lalo. Dưới sự quản lý của Columbia Artists, Julius đã biểu diễn trong một chuỗi các buổi hòa nhạc cộng đồng trên khắp đất nước và xuất hiện trên chương trình radio “The Ford Sunday Evening Hour”.
Julius ngoài việc học âm nhạc với ông bà thì cậu được gia sư từ một trường học địa phương đến nhà dạy các môn khác. Hoạt động này được tiến hành đến khi cậu 14 tuổi. Nhận thấy việc để một đứa trẻ thường xuyên biểu diễn không phải là một hành động sáng suốt, có thể mang đến những tác động không tốt, Julius cần một môi trường hoà đồng với những người bạn cùng lứa tuổi, ông Ira đã quyết định ghi danh cho cậu con trai mình học trung học và tạm thời dừng các hoạt động âm nhạc. Sau khi tốt nghiệp trung học, Julius theo học ngành triết học và văn học Anh tại Haverford College, Pennsylvania. Anh đã tốt nghiệp chỉ sau 3 năm với một chương trình được dành cho 4 năm học với kết quả xuất sắc, đứng đầu lớp vào năm 1946. Trong thời gian học tại Haverford, David Saperton trở thành giảng viên piano duy nhất của anh và Julius cũng nối lại các buổi biểu diễn của mình bằng những buổi độc tấu thường xuyên trong khuôn khổ trường học. Saperton là một giáo viên tài năng, những học sinh ưu tú khác của ông có thể kể đến Jorge Bolet và Shura Cherkassky. Ấn tượng với khả năng học tập của Julius, chính phủ Mĩ đã cấp học bổng cho anh để nghiên cứu triết học. Tuy nhiên, Julius đã đề nghị đổi sang việc học âm nhạc và được chấp thuận. Năm 1946, anh ghi danh vào Nhạc viện Paris và trở thành học trò của Lazare Lévy.
Mùa thu năm 1946, Katchen lên đường đến Paris và ngay lập tức được UNESCO mời đại diện cho nước Mỹ tại một liên hoan âm nhạc do UNESCO tổ chức. Anh đã biểu diễn bản Concerto piano số 5 “Hoàng đế” của Ludwig van Beethoven cùng nhạc trưởng Paul Kletzki và Orchestre Nationale de la Radiodiffusion Française, sau đó 3 ngày là Concerto piano số 1 của Peter Ilyich Tchaikovsky và tiếp theo là Concerto piano của Schumann một tuần sau đó. Cả châu Âu nhanh chóng đón chào một tài năng piano mới đến từ Tân lục địa. Trong mùa xuân năm 1947, Katchen liên tục tổ chức các buổi độc tấu và hoà nhạc tại rộng khắp các thành phố: Rome, Venice, Naples, Paris, London, Stockholm, Copenhagen, Zurich và Salzburg. Tháng 4/1947, Katchen lần đầu biểu diễn cùng Vienna Philharmonic và tháng 5 đánh dấu sự hợp tác đầu tiên của anh với nhạc trưởng tài danh Otto Klemperer. Gắn bó với Paris, Katchen đã quyết định đây sẽ trở thành ngôi nhà mới của mình. Điều này, được anh giải thích trong một cuộc phỏng vấn, hoàn toàn là vì lý do chuyên môn. Vô cùng thẳng thắn anh cho biết: “Ở đất nước này, các sinh viên piano đến với nhau một cách xây dựng và họ thậm chí có thể trở thành bạn bè. Họ tham dự các buổi hoà nhạc của nhau và vỗ tay. Ở Mỹ, họ đi nghe một đồng nghiệp chơi đàn nhưng chỉ với hy vọng được nhìn thấy anh ta bị gãy cổ”. Katchen đã được hãng thu âm danh tiếng Decca đề nghị ký hợp đồng. Hầu hết những bản thu âm tuyệt vời nhất của Katchen đều được thực hiện với thương hiệu danh giá này. Đĩa nhạc đầu tiên của anh với Decca là bản Sonata piano số 3 của Johannes Brahms.
Trong những năm sau đó, Katchen duy trì một lịch biểu diễn và thu âm dày đặc. Katchen đặc biệt cảm thấy gắn bó với châu Âu, nơi ông cảm thấy “nhiều cơ hội hơn cho các buổi biểu diễn và môi trường tốt hơn để phát triển” so với quê nhà. Katchen đặc biệt được đón nhận ở London, nơi mà ông coi là trung tâm âm nhạc của thế giới. Ông thực hiện nhiều buổi độc tấu tại đây, có sự gắn bó mật thiết với London Symphony Orchestra và ghi âm cho Decca gần 50 đĩa nhạc. Trong nhiều năm liền, Katchen gần như không cảm thấy mệt mỏi trong việc duy trì khoảng hơn 100 buổi hoà nhạc một năm, cá biệt có năm lên tới hơn 150 buổi. Theo như tạp chí Audio Record: “Katchen yêu thích việc tạo ra âm nhạc. Ông muốn và tiếp tục thực hiện điều này. Trách nhiệm to lớn đó là niềm vui thực sự đối với ông ấy và không bao giờ là sự mệt mỏi”. Trong một chương trình hoà nhạc tại Royal Festival Hall, London, Katchen đã biểu diễn 3 bản concerto piano liên tục: số 3 của Beethoven, số 2 của Brahms và số 2 của Sergei Rachmaninov. Và cũng tại đây trong buổi độc tấu ngày 23/10/1960, sau khi kết thúc chương trình chính với Sonata piano số 21 của Franz Schubert và Biến tấu trên chủ đề Diabelli của Beethoven, Katchen đã encore thêm cho khán giả trọn vẹn bản Sonata sonata số 23 “Appassionata” của Beethoven!
Katchen được mệnh danh là sở hữu những ngón tay được mạ crom vì ông có một nền tảng kỹ thuật tuyệt vời. Islamey của Mily Balakirev (được tạp chí Times, London hóm hỉnh: “Ai cũng có thể được tha thứ nếu người đó có 4 tay”) hay các quãng 8 khó nhằn nhất trong Sonata piano của Franz Liszt đều được ông thể hiện một cách dễ dàng. Nhưng ông không có ý định lạm dụng nó mà chỉ coi đó là cơ sở để thuận tiện hơn trong việc diễn giải các bản nhạc mà mình chơi. Mặc dù vậy, trong sự nghiệp của mình, đặc biệt là khoảng thời gian đầu, Katchen bị chỉ trích vì vội vàng quá mức, sự nhiệt tình thái quá này đã khiến Katchen đưa dàn nhạc đến một tốc độ chóng mặt như trong Concerto piano 13 của Mozart hay đoạn đầu chương I Concerto piano số 4 của Beethoven (các bản thu với Decca). Nhưng sau này, Katchen đã kiểm soát rất tốt cảm xúc của mình, khiến khán giả đắm chìm vào những sắc thái âm nhạc mà ông tạo ra, thay vì sững sờ với những đoạn phô diễn kỹ thuật khoa trương. Ông có cách tiếp cận tác phẩm đầy sâu sắc, có tính chiêm nghiệm cao, khiến ta nhớ tới việc Katchen từng tốt nghiệp hạng ưu về triết học. Đĩa nhạc Katchen biểu diễn cùng Georg Solti và London Symphony Orchestra bản Concerto piano số 2 của Rachmaninov vào năm 1960 là một ví dụ tiêu biểu. Âm nhạc sống động, lộng lẫy, nhiều đường nét tỉ mỉ, cách xử lý chi tiết tới từng nốt nhạc nhưng không hề thiếu sự trữ tình nồng nàn đã tạo nên một bản thu âm đẹp mê hồn. Đĩa nhạc này là một trong những bản thu âm nổi tiếng nhất của Katchen, đã bán được hơn một triệu bản.
Katchen là một người nghiêm khắc với bản thân nhưng không tỏ ra khiêm tốn một cách giả tạo. Bạn ông, nghệ sĩ piano Gary Graffman, người từng thu âm cùng Katchen tác phẩm Le Carnaval des Animaux của Camille Saint-Saëns cho biết: “Khi có một buổi hoà nhạc thành công, anh ấy sẽ thừa nhận ngay vào sáng ngày hôm sau: “Đêm qua tôi đã có một màn trình diễn tuyệt vời nhất!” và nói liên tục trên bữa ăn sáng, bắt đầu mô tả từng nốt nhạc của chương trình. Còn nếu có một buổi biểu diễn không đạt tiêu chuẩn của mình, anh ấy sẽ rên rỉ, miêu tả bất tận các chi tiết rằng điều gì đã xảy ra”. Mặc dù có biểu diễn một số tác phẩm âm nhạc đương đại như Diversions, tác phẩm dành cho piano tay trái và dàn nhạc của Benjamin Britten dưới sự chỉ huy của chính nhà soạn nhạc hay Ned Rorem với một bản sonata piano được dành tặng cho Katchen cũng như một số tác phẩm khác của Aaron Copland, Igor Stravinsky, Sergei Prokofiev nhưng ông vẫn có xu hướng tránh xa thứ âm nhạc này, cho rằng chúng thiếu giai điệu, không có cảm xúc và chứa nhiều “âm thanh xấu xí”. Như Rorem từng nhận xét: “Nói chung trái tim âm nhạc của Katchen nằm ở Đức”. Rorem vô cùng ấn tượng với tài năng của Katchen: “Anh ấy có khả năng học tập nhanh như chớp với trí nhớ nổi tiếng trung thành, không phải đến từ khả năng tư duy trí tuệ mà là từ những đầu ngón tay nhạy cảm: đôi tay của anh ấy đã hoàn toàn ghi nhớ… Tôi nhớ anh ấy đi lưu diễn mà không có bản nhạc của tôi, không phải vì tất cả đều được ghi lại trong não, nó được chụp lại trong ngón tay”. Katchen cũng không ngần ngại bày tỏ quan điểm của mình. Năm 1962 khi ông có chuyến lưu diễn tại Đông Đức, ông đã công khai lên án việc xây dựng bức tường Berlin. Các quan chức Liên Xô tuyên bố bình luận của ông là phỉ báng và cấm Aram Khachaturian thu âm bản concerto piano của nhà soạn nhạc với Katchen trong vai trò nghệ sĩ độc tấu tại một chương trình đã được lên lịch từ trước cùng Vienna Philharmonic.
Cho đến tận năm 1962, Katchen mới quay về biểu diễn tại Mỹ. Trong đó đáng nhớ có lần xuất hiện cùng New York Philharmonic và nhạc trưởng Karl Böhm trong Concerto piano của Schumann vào ngày 22/11/1962. Tháng 4/1964, tại Wigmore Hall, London, Katchen đã biểu diễn toàn bộ các tác phẩm âm nhạc dành cho piano độc tấu của Brahms trong 4 buổi diễn và là nghệ sĩ piano đầu tiên trên thế giới thực hiện điều này. Chương trình được lặp lại sau đó tại Cambridge, New York, Berlin và Amsterdam. Đây cũng là những gì vĩ đại nhất trong số di sản mà ông để lại. Trong khoảng thời gian này, Katchen thể hiện sự gắn bó mật thiết với âm nhạc của Brahms và trở thành một đối tác đáng tin cậy trong hoà nhạc thính phòng. Ông đã ghi âm các sonata violin với Josef Suk, các trio với Josef Suk và János Starker cũng như sonata cello số 2 với Starker. Sự ngã bệnh và qua đời đột ngột của Katchen sau đó đã phá bỏ kế hoạch thu âm nốt bản Sonata cello số 1.
Có hai nhạc trưởng mà Katchen gắn bó mật thiết trong sự nghiệp biểu diễn của mình. Người đầu tiên là nhạc trưởng người Ý Piero Gamba, mà ông đã thu âm trọn bộ các bản concerto piano cũng như Choral Fantasy của Beethoven. Người thứ hai mà Katchen thích làm việc hơn tất cả là nhạc trưởng người Hungary István Kertész. Cùng nhau họ đã thực hiện rất nhiều các tác phẩm dành cho piano và dàn nhạc. Buổi biểu diễn cuối cùng của Katchen cũng được thực hiện với Kertész và London Symphony Orchestra trong bản Concerto piano dành cho tay trái của Maurice Ravel vào ngày 12/12/1968. Đây cũng là tác phẩm Katchen thực hiện thu âm cuối cùng trong sự nghiệp của mình. Ông bị chẩn đoán ung thư bạch cầu. Graffman nhớ lại: “Anh ấy đã chiến đấu với nó từng inch và mô tả trận chiến của mình như thể đó là một cảnh đấu kiếm trong một bộ phim của Errol Flynn”. Katchen ở lại London để điều trị hoá chất, dành cả ngày ở bệnh viện và tối trở về nhà chơi piano. Nhưng cuối cùng ông đã không qua khỏi và qua đời tại Paris hơn 5 tháng sau đó, vào ngày 29/4/1969, khi chỉ mới 42 tuổi, thời kỳ đi vào độ chín của một nghệ sĩ piano. Với sự qua đời của người bạn mình, Rorem cho biết: “Julius Katchen đã làm việc rất chăm chỉ. Sức sống của anh ấy mạnh mẽ đến mức sau khoảng mười hai giờ luyện tập, anh ấy có thể ra ngoài và đến quán bar với chúng tôi, dậy sớm vào ngày hôm sau và bắt đầu lại từ đầu… Giống như Baudelaire, anh ấy đã sống ba cuộc đời trong một. Vì vậy, khi anh ấy qua đời, không phải là 42 tuổi, mà là 126”.
Katchen được biết đến là một con người có tính cách thẳng thắn, hướng ngoại, ưa thích trò chuyện và khuấy động không khí. Cùng với vợ mình Arlette Patoux (hai người kết hôn vào ngày 10/4/1956), họ có thú vui sưu tầm netsuke, những đồ vật chạm khắc nhỏ của Nhật Bản. 195 tác phẩm từ bộ sưu tập của họ đã được bán đấu giá vào năm 2005 và 2006 với giá 1,2 triệu bảng Anh. 392 tác phẩm khác đã được bán đấu giá vào năm 2016 và 2017 với giá 2,3 triệu bảng Anh. Mặc dù không tham gia giảng dạy tại một nhạc viện nào hay tổ chức các lớp master class nhưng ông tích cực và hào phóng giảng dạy những buổi học tư không thu thù lao đối với những tài năng trẻ triển vọng. Người học trò nổi tiếng nhất của Katchen là Pascal Rogé. Năm 2016, Decca phát hành bộ 36 đĩa nhạc các tác phẩm mà ông đã thu âm cho hãng, một tài liệu quý giá để chúng ta có thể thưởng thức tài năng của ông. Nếu không qua đời sớm, chắc chắn chúng ta sẽ còn được biết đến một Katchen sâu sắc và trí tuệ hơn.
Ngọc Tú tổng hợp
Nguồn:
prabook.com
gramophone.co.uk
Bình luận Facebook